TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 329/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 345/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Lê Nhật T, sinh ngày 09-3-2001 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: 60/7A T, Phường T, thành phố V, tỉnh B; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Lê Văn N; Mẹ: Trần Thị Bé T; Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị bắt, tạm giam ngày 04-9-2020 (có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Bé T, sinh năm 1969; địa chỉ: 60/7A T, Phường T, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 03-9-2020, tại lầu 2 thuộc căn nhà đang xây, cạnh nhà số 198/2/5 Lưu Chí Hiếu, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an Phường 10, thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Lê Nhật T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ vật chứng và một số tài sản liên quan trong vụ án.
Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an Phường 10 đã chuyển hồ sơ, vật chứng và tài sản liên quan đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Vũng Tàu để điều tra theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, T khai nhận: T sử dụng ma túy tổng hợp từ tháng 7 năm 2020. Gói ma túy bị cơ quan chức năng bắt quả tang là của T vừa mua từ một người không rõ nhân thân, lai lịch trên đường Trần Xuân Độ, Phường 5, thành phố Vũng Tàu với giá 200.000 đồng để sử dụng. Trước đó, bạn của T là Nghiệp đã đưa cho T 100.000 đồng và bảo T góp thêm 100.000 đồng đề mua ma túy về cùng nhau sử dụng.
Lời khai của Lê Nhật T phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp lời khai của người chứng kiến là anh Nguyễn Văn Sinh.
Tại Bản kết luận giám định số 430/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 10-9-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an Phường10 - CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Thiếu tá Ngô Hiếu Nghĩa, Lê Tiến Đạt, Nguyễn Văn Sinh, Lê Nhật T gửi đến giám định có khối lượng 0,2298 gam, là ma túy loại Methamphetamine.
Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng tiến hành thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:
- 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2298 gam (gói niêm phong số 430/GĐMT-PC09 ngày 10-9-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu);
- 01 chiếc xe mô tô không rõ nhãn hiệu màu xanh, biển số: 72K7 – 2855, số khung 5A002665, số máy 00002665 (xe đã hư hỏng nặng). Qua điều tra, xác định chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn Thắng, địa chỉ: 5B/6, Phước Bình, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông Thắng vắng mặt tại địa phương nên không làm việc được. Trường khai mượn xe của mẹ là bà Trần Thị Bé T. Bà Tám khai xe bà mua đã lâu và chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Ngày 30-11-2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra thông báo trên Đài Phát thanh truyền hình tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Báo Bà Rịa - Vũng Tàu tìm chủ sở hữu xe mô tô trên;
- 01 điện thoại di động hiệu V- Smart màu đen, số Imei 1: 351726115250503, Imei 2: 351726115250511 (không kiểm tra chất lượng bên trong).
Số vật chứng và tài sản nêu trên được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.
Bản cáo trạng số 332/CT-VKSTPVT ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Nhật T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Lê Nhật T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Nhật T từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án, trả lại xe mô tô biển số: 72K7 – 2855 cho bà Trần Thị Bé T và trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động; Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc làm ổn định, không có thu nhập nên đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo Lê Nhật T đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết quả giám định, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên tòa: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Nhật T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 03-9-2020, tại lầu 2 thuộc căn nhà đang xây, cạnh nhà số 198/2/5 Lưu Chí Hiếu, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, Công an Phường 10, thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Lê Nhật T tàng trữ trái phép 0,2298 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng.
Hành vi do bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đối với Nghiệp, là người góp 100.000 đồng để cùng T mua ma túy, T không biết rõ địa chỉ của Nghiệp, chỉ biết Nghiệp ở tại hẻm 724 đường Bình Giã, Phường 10, thành phố Vũng Tàu. Theo kết quả xác minh của Cơ quan Công an thành phố Vũng Tàu, tại địa chỉ này không có ai tên Nghiệp sinh sống hay đăng ký tạm trú; đối với đối tượng đã bán ma túy trái phép cho T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, để xử lý theo quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội;
đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là con nghiện, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án.
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu V- Smart màu đen, số Imei 1: 351726115250503, Imei 2: 351726115250511 (không kiểm tra chất lượng bên trong) vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
- Đối với chiếc xe mô tô không rõ nhãn hiệu màu xanh, biển số: 72K7 – 2855, số khung 5A002665, số máy 00002665. Cơ quan điều tra đã điều tra, xác minh và tiến hành đăng báo để tìm chủ sở hữu hay người quản lý hợp pháp chiếc xe, nhưng hết thời hạn đăng báo không có ai đến nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là xe do bà Trần Thị Bé T mua, bà T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại chiếc xe mô tô trên cho bà Trần Thị Bé T;
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Lê Nhật T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Lê Nhật T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 04 tháng 9 năm 2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 430/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 10-9-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu V- Smart màu đen, số Imei 1: 351726115250503, Imei 2: 351726115250511 (không kiểm tra chất lượng bên trong).
- Trả lại cho bà Trần Thị Bé T 01 chiếc xe mô tô không rõ nhãn hiệu màu xanh, biển số: 72K7 – 2855, số khung 5A002665, số máy 00002665 (xe đã hư hỏng nặng).
Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 52/BB.THA ngày 18 tháng 12 năm 2020.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 13/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 13/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về