Bản án 13/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 13/2021/HS- ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mù Cang Chải, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2020/TLST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Vàng A Kh, sinh ngày 05 tháng 5 năm 1991 tại huyện M, tỉnh Yên Bái; cư trú tại: bản M, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A V, sinh năm 1966 và bà Lý Thị Gi, sinh năm 1960; vợ là Giàng Thị Gi, sinh năm 1994; tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự; nhân thân: Tại quyết định số 01 ngày 12/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mù Cang Chải quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng. Bị cáo là dân tộc thiểu số, hiểu biết xã hội còn nhiều hạn chế, nhưng là người nghiện ma túy, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/8/2020. Có mặt.

2. Thào A H, sinh năm 1982 tại huyện M, tỉnh Yên Bái; cư trú tại: bản M, xã P, huyện M, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thào Máo Gi, sinh năm 1947 và bà Lý Thị S (đã chết); vợ là Giàng Thị S, sinh năm 1982có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2016); tiền án: có 01 tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 07/2010/HSST ngày 17/11/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt Thào A H 08 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đến ngày 31/8/2015 được đặc xá tha tù (Đã được xóa án tích); Bị cáo là dân tộc thiểu số, hiểu biết xã hội còn nhiều hạn chế, nhưng là người nghiện ma túy, thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/8/2020. Có mặt.

- Bị hại: + Hảng Thị S, sinh năm 1972; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản P, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Lý A M, sinh năm 1969; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản H, xã C, huyện M, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

+ Hờ A S, sinh năm 1990; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản N, xã M huyện M, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Hờ A Nh, sinh năm 1993; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản Tr, xã C, huyện M, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Hờ Thị C, sinh năm 1986; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản P, xã L, huyện M, tỉnh Yển Bái. Có mặt.

- Những có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Hờ A V, sinh năm 1985; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: bản D, xã C, huyện M, tỉnh Yển Bái. Vắng mặt.

+ Nguyễn Tiến M; sinh năm 1995; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: Tổ 4, thị trấn M, huyện M, tỉnh Yển Bái. Vắng mặt.

- Người phiên dịch: ông Thào A Dờ; sinh năm 1979; nghề nghiệp: Cán bộ Tòa án: trú tại: Tổ 5, thị trấn Mù Cang Chải, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 27/06/2020 Thào A H đi xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu đen, biển kiểm soát 21 G1 - 118.36 từ nhà ra Ngã Ba Kim, xã Púng Luông, huyện Mù Cang Chải gặp Vàng A Kh hai người bàn bạc, thống nhất cùng nhau đi xem nhà người dân nào không có người ở nhà thì lấy trộm tài sản mang bán lấy tiền tiêu, mua ma túy sử dụng. khoảng 15 giờ cùng ngày một mình H đi bộ theo hướng thị trấn Mù Cang Chải rẽ trái xuống bên tả luy âm đi đến nhà bà Hờ Thị C, sinh năm 1986, thấy không có người ở nhà, H nhặt lấy 01 cái bao tải đi vào trong chuồng lợn bắt trộm 01 con lợn lông màu đen có đốm lông trắng ở đầu cho vào bao tải, rồi đi ra đường quốc lộ, lúc này Khua cũng đi xe máy đến, hai người mang con lợn xuống bán cho Hờ A V với giá 130.000,đồng/1kg, sau khi thỏa thuận và cân lợn được 05 kg, V trả cho Kh, H 650.000 đồng, số tiền này Kh, H chia nhau chi tiêu cá nhân và mua ma túy sử dụng hết rồi cùng về nhà Kh ngủ.

Ngày hôm sau 28/06/2020, Kh đèo H tiếp tục đi đến khu vực đồi Mâm xôi, thuộc bản Pú Nhu Háng Sung, xã La Pán Tẩn. huyện Mù Cang Chải để trộm cắp, khoảng 13 giờ phát hiện thấy nhà bà Hảng Thị S, sinh năm 1972 không có ai ở nhà, H vào chuồng bắt 01 con lợn, rồi cùng Kh lại mang xuống bán cho Hờ A V bán với giá 100.000,đồng/1kg, sau khi thỏa thuận và cân lợn được 11 kg, Vàng trả 1.100.000 đồng cho Kh và H, số tiền này hai người mang lên Ngã Ba Kim chi tiêu ăn uống và mua ma túy sử dụng hết rồi cả hai về nhà Kh ngủ qua đêm.

Chiều ngày 29/06/2020 H, Kh tiếp tục cùng nhau đi đến khu vực bản Háng Chua Xay, xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải để trộm cắp, phát hiện thấy nhà ông Lý A M, sinh năm 1969 không có ai ở nhà, Khua đứng ở ngoài cảnh giới, H vào chuồng bắt 01 con lợn, sau đó cùng mang con lợn xuống bán cho Hờ A V, cân được 09 kg, thỏa thuận giá 130.000,đồng/1kg, V trả Kh, Hử 1.170.000 đồng, số tiền này hai người chia nhau chi tiêu, mua ma túy sử dụng hết.

Ngày 01/07/2020 H, Kh tiếp tục cùng nhau đi trộm cắp tài sản, khoảng 13 giờ cùng ngày đến khu vực Trạm y tế xã Mồ Dề thuộc bản Nả Háng, xã Mồ Dề, huyện Mù Cang Chải phát hiện nhà ông Hờ A S, sinh năm 1990 không có người ở nhà, thấy trong chuồng có 02 con lợn, H bảo Kh đi xe máy ra đoạn đường sau nhà Hờ A S đợi, H nhặt lấy cái bao tải ở hiên nhà đi vào chuồng bắt 01con lợn cho vào bao tải, rồi mang lợn ra chỗ Kh hai người chở xuống bán cho Nguyễn Tiến M, sinh năm 1995, tổ 4, thị trấn huyện Mù Cang Chải M cân được 12 kg, thỏa thuận giá 100.000,đồng/1kg, M trả trước 1.000.000 đồng, còn nợ lại 200.000 đồng M bảo tối quay lại trả nốt.

Sau khi bán lợn xong Kh, H tiếp tục đi đến khu vực bản Trống Tông, xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải để trộm cắp, phát hiện thấy nhà ông Hờ A Nh, sinh năm 1993 không có ai ở nhà Kh đứng ở ngoài cảnh giới, H vào chuồng bắt 02 con lợn rồi hai người mang xuống bán tiếp cho Nguyễn Tiến M, cân được 10 kg, M trả 1.000.000 đồng và trả nốt 200.000đồng nợ, số tiền này Kh, H chia nhau chi tiêu, mua ma túy sử dụng hết.

Cả 03 con lợn này Nguyễn Tiến M đã bán cho một người không quen biết với giá 3.000.000 đồng vào buổi tối cùng ngày.

Sáng ngày 02/07/2020, Hờ A Nh đến Công an xã Chế Cu Nha trình báo về việc gia đình mất trộm lợn và có nghi ngờ Vàng A Kh và Thào A H. Ngay sau đó Công an xã phát hiện Vàng A Kh và Thào A H đang ăn sang ở khu vực gần trụ sở UBND xã Chế Cu Nha nên yêu cầu Kh, H về trụ sở làm việc, tại đây Kh, H đã thừa nhận hành vi trộm cắp lợn như trên.

Sau đó Ban Công an xã Chế Cu Nhà đã thông báo đến các hộ dân, kết hợp cùng Công an các xã La Pán Tẩn, Mồ Dề xác định các hộ gia đình bị mất trộm lợn, đưa những người bị hại đến nhà Hờ A V ở bản Dề Tháng, xã Chế Cu Nha để nhận dạng, xác định những con lợn của gia đình bị mất trộm.

Quá trình điều tra Hờ A V khai đã mua 03 con lợn của Vàng A Kh và Thào A H mang đến bán. Nhưng V đã mổ ăn (khi láng nền nhà ngày 01/07/2020) con lợn có khối lượng 09 kg mua ngày 29/06/2020 của Vàng A Kh và Thào A H trộm cắp của ông Lý A M; còn 02 con lợn V đang nuôi nhốt trong chuồng gồm: 01 con lông màu đen, có đốm lông trắng trên đầu, khối lượng 05 Kg (Không có người nhận, Công an xã tạm giao cho V chăn nuôi nhưng đã ốm chết); 01 con lợn lông màu đen, trắng, quanh mũi có lông màu trắng, khoảng phần từ giữa thân lên đến cổ có lông màu trắng, khối lượng 11 kg, bà Hảng Thị S nhận là con lợn của gia đình bị mất, nên tạm giao cho Hảng Thị S chăn nuôi, bảo quản.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 09 /HĐ- ĐGTS ngày 27/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Mù Cang Chải kết luận:

- 01 con lợn lông màu đen, có đốm lông trắng trên đầu, khối lượng 05 kg tình trạng lợn còn sống, khỏe mạnh bình thường, có giá là 750.000 đồng;

- 01 con lợn lông màu đen, trắng, quanh mũi có lông màu trắng, khoảng phần từ giữa thân lên đến cổ có lông màu trắng, khối lượng 11 kg, tình trạng lợn còn sống, khỏe mạnh bình thường, có giá là 1.650.000 đồng;

- 01 con lợn lông màu đen khối lượng 09 kg, tình trạng lợn còn sống, khỏe mạnh bình thường, có giá là 1.350.000 đồng;

- 01 con lợn lông màu đen khối lượng 12 kg, tình trạng lợn còn sống, khỏe mạnh bình thường, có giá là 1.800.000 đồng.

- 02 con lợn lông màu đen khối lượng 10 kg, tình trạng lợn còn sống, khỏe mạnh bình thường, có giá là 1.500.000 đồng.

( Tổng giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp là 7.050.000 đồng) Tại Cáo trạng số 39/CT-VKS-MCC ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mù Cang Chải truy tố các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như nội dung bản cáo trạng truy tố. Các bị cáo chưa bồi thường cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

- Những bị hại khai nhận bị Vàng A Kh và Thào A H trộm cắp tài sản (lợn), yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại như sau:

+ Hảng Thị S yêu cầu các bị cáo bồi thường 400.000 đồng là tiền nhờ anh em đi tìm lợn.

+ Hờ Thị C 01 con lợn khối lượng 05 kg đề nghị bồi thường 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Lý A M 01 con lợn khối lượng 09 kg đề nghị bồi thường 1.350.000 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Hờ A Nh 02 con lợn khối lượng 10 kg đề nghị bồi thường 1.500.000 đồng.

(Một triệu năm trăm nghìn đồng).

+ Hờ A S 01 con lợn khối lượng 12 kg đề nghị bồi thường 1.800.000 đồng.

(Một triệu tám trăm nghìn đồng).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hờ A V yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.100.000 đồng số tiền bỏ ra mua con lợn 11 kg, mà Công an xã Chế Cu Nha tạm giao cho bà Hảng Thị S.

- Nguyễn Tiến M đã mua 03 con lợn của các bị cáo, đã bán lại cho người không quen biết, M không có yêu cầu gì thêm.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội giữ nguyên toàn bộ quyết định truy tố, đề nghị tuyên bố các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H phạm tội “Trộm cắp tài sản” đề nghị xử phạt các bị cáo như sau:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng A Kh từ 09 tháng đến 12 tháng tù; Xử phạt bị cáo Thào A H từ 07 tháng đến 10 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H bồi thường thiệt hại cho những bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Mù Cang Chải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mù Cang Chải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, như lời khai của những bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản. Từ đó đã đủ căn cứ kết luận: Các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản. Cụ thể: ngày 28/6/2020 đến ngày 01/7/2020 các bị cáo cùng nhau đi trộm cắp được 06 con lợn, tổng khối lượng 47 Kg tổng trị giá 7.050.000 đồng của các hộ gia đình ông, bà Hờ Thị C, Hảng Thị S, Lý A M, Hờ A S, Hờ A Nh cùng mang đi bán cho Hờ A V 03 con được 2.920.000 đồng và mang bán cho Nguyễn Tiến M 03 con được 2.200.000 đồng. Hành vi đó của các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định của khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bản thân các bị cáo là người nghiện chất ma túy, không chịu làm ăn lương thiện, lợi dụng sơ hở của người khác để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương, nên phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Xét đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, trong đó hai người cùng khởi xướng, cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó vai trò của hai bị cáo trong việc thực hiện tội phạm là ngang nhau.

[5] Về tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử cần quyết định xử phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Xét các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khẳng năng, điều kiện để thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa Hảng Thị C thừa nhận 01 con lợn lông màu đen, có đốm lông trắng trên đầu, khối lượng 05 kg Công an tạm giao cho Hờ A V chăn nuôi, quản lý (con lợn này đã bị ốm chết) là lợn của mình và yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại; các bị cáo cũng thừa nhận con lợn trên là do các bị cáo trộm cắp của Hờ Thị C vào ngày 27/06/2020 và chấp nhận yêu cầu bồi thường của chị Hờ Thị C với số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Bị hại Hảng Thị S đã nhận được tài sản (con lơn 11 kg) của mình và yêu cầu các bị cáo bồi thường 400.000 đồng là tiền nhờ anh em đi tìm lợn;

+ Lý A M yêu cầu bồi thường 01 con lợn khối lượng 09 kg đề nghị bồi thường 1.350.000 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Hờ A Nh yêu cầu bồi thường 02 con lợn khối lượng 10 kg đề nghị bồi thường 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

+ Hờ A S yêu cầu bồi thường 01 con lợn khối lượng 12 kg đề nghị bồi thường 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hờ A V yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa các bị cáo nhận bồi thường toàn bộ số tiền trên; Hội đồng xét xử thấy rằng thỏa thuận giữa các bị cáo và các bị hại là tự nguyện, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội cần được chấp nhận.

Đối với Nguyễn Tiến M đã mua 03 con lợn của các bị cáo, đã bán lại cho người không quen biết, M không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[8] Về xử lý vật chứng:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, màu đen, Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 21 G1 - 118.36 là tài sản hợp pháp của Thào A Nh (là con đẻ của Thào A H), Nh không biết và bị can H cũng không cho Nh biết việc sử dụng xe vào việc phạm tội, nên Cơ quan Điều tra đã trả chiếc xe cho Thào A Nh là chủ sở hữu.

- 01 con lợn lông màu đen, có đốm lông trắng trên đầu, khối lượng 05 kg. Do chưa xác định được chủ sở hữu nên tạm giao cho Hờ A V chăn nuôi, bảo quan, tuy nhiên con lợn này đã bị ốm chết. Tại phiên tòa Hờ Thị C xác nhận là lợn của mình và yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại.

- 01 con lợn lông màu đen, trắng, quanh mũi có lông màu trắng, khoảng phần từ giữa thân lên đến cổ có lông màu trắng, khối lượng 11 kg. Xác định bà S là chủ sở hữu, cần trả cho chủ sở hữu Hảng Thị S (xác nhận S đã nhận được con lợn của mình).

[9] Các vấn đề khác liên quan đến vụ án:

Trong vụ án này còn có Hờ A V và Nguyễn Tiến M là những người mua lợn của các bị cáo trộm cắp được mang đến bán. Nhưng họ không biết lợn do các bị cáo trộm cắp mang đến bán, nên Hờ A V và Nguyễn Tiến M không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[11] Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Vàng A Kh 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 24/8/2020..

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Thào A H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 24/8/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 357, khoản 2 Điều 468, Điều 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự.

Các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H phải liên đới bồi thường thiệt hại cho những bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như sau:

+ Vàng A Kh bồi thường cho Hảng Thị S 200.000 đồng; Hờ Thị C 375.000 đồng; Lý A M 675.000 đồng; Hờ A Nh 750.000 đồng; Hờ A S 900.000 đồng và Hờ A V 550.000 đồng.

+ Thào A H bồi thường cho Hảng Thị S 200.000 đồng; Hờ Thị C 375.000 đồng; Lý A M 675.000 đồng; Hờ A Nh 750.000 đồng; Hờ A S 900.000 đồng và Hờ A V 550.000 đồng.

Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Hảng Thị S 01 con lợn lông màu đen, trắng, quanh mũi có lông màu trắng, khoảng phần từ giữa thân lên đến cổ có lông màu trắng, khối lượng 11 kg (Chị Sông được tạm bàn giao để chăn nuôi theo biên bản sự việc ngày 03/7/2020; mà Sông đang quản lý).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, Các bị cáo Vàng A Kh và Thào A H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yên cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về