Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 175/2020/TLST – HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị L, sinh năm 1983 Trú tại: Xóm C, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

Bị đơn: Anh Lo Văn H, sinh năm 1979 Trú tại: Xóm C, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai nguyên đơn chị Hà Thị L trình bày: Chị và anh Lo Văn H kết hôn vào ngày 10/12/2003, đăng ký kết hôn tại UBND xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H sống không có trách nhiệm với gia đình, không chịu khó làm ăn mà bài bạc, nghiện hút ma túy và thường xuyên đánh đập chị. Hai bên gia đình và xóm đã hòa giải, khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh H không thay đổi mà lại lún sâu vào nghiện hút ma túy và đánh đập chị thậm tệ hơn. Không thể chịu đựng để sống chung cùng anh H nên từ tháng 9 năm 2020 chị đã đưa con về bên ngoại sống ly thân anh H. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hai bên không thể tiếp tục sống chung nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh H được ly hôn.

Chị và anh H có 02 người con chung là Lo Thị Th, sinh ngày 29/4/2002 và Lo Văn H, sinh ngày 28/02/2009. Hiện nay con chung Lo Thị Th đã đủ 18 tuổi, trưởng thành nên chị không đề xuất gì về giao nuôi con. Chị và anh H ly hôn, chị yêu cầu được giao nuôi dưỡng con chung Lo Văn H, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn anh Lo Văn H, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng anh H không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà anh Hiếu vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị L được ly hôn anh H; Về giao nuôi con: Giao con chung Lo Văn H, sinh ngày 28/02/2009 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Hiếu; Về tài sản: Chị L không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét; Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lo Văn H có hộ khẩu thường trú tại xóm C, xã Ch huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Hôn nhân của chị L và anh H là hôn nhân hợp pháp, đảm bảo về điều kiện kết hôn và được đăng ký theo quy định. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và từ tháng 9/2020 đến nay chị L, anh H đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án chị L một mực xin ly hôn anh H, tại phiên toà chị L vẫn cương quyết giữ nguyên yêu cầu đó. Xét thấy hôn nhân của chị L, anh H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị L, cho chị L được ly hôn anh H.

Về con chung: Con chung của chị L, anh H là cháu Lo Thị Th đã đủ 18 tuổi trưởng thành, cháu Lo Văn H đang sống cùng chị L, do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, chị L có việc làm, thu nhập ổn định, có các điều kiện đảm bảo cho việc học tập, giáo dục con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức và cháu H cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cháu H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H.

Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đối với anh Lo Văn H, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án anh H không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, thuộc trường hợp vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh Hiếu vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt anh Hiếu.

[4] Về án phí: Chị Hà Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị L được ly hôn anh Lo Văn H.

Về con chung: Giao con chung Lo Văn H, sinh ngày 28/02/2009 cho chị Hà Thị L trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lo Văn H.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hà Thị Lo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 300.000,đ chị Hà Thị L đã nộp theo biên lai thu số 0001759 ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về