Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 608/2020/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 về việc “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 980/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Mỹ T, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp TĐ, xã LVL, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Anh Trần Ngọc M, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp TĐ, xã LVL, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 11/11/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án được bổ sung tại phiên tòa chị Lê Thị Mỹ T trình bày: Chị và anh M sống chung vào năm 2013, có tổ chức cưới gả theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LVL, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Quá trình chung sống thời gian đầu có hạnh phúc nhưng thời gian sau vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh M không lo làm ăn, thường xuyên đi chơi không về nhà, không quan tâm chăm sóc chị, kinh tế gia đình một mình chị phải gánh vác, gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh M vẫn không thay đổi. Hiện nay chị xác định không thể chịu đựng được. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh M và không thể tiếp tục chung sống với anh M được nữa. Do đó, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị Lê Thị Mỹ T xác định giữa chị và anh M chưa có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị Mỹ T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị Lê Thị Mỹ T khai không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ, chồng.

- Tại bản tự khai ngày 19/01/2021 và tại phiên tòa anh Trần Ngọc M trình bày:

Về hôn nhân: thời gian chung sống, đăng ký kết hôn là đúng như chị T trình bày. Anh thừa nhận bản thân có không lo làm ăn, thường xuyên đi chơi nhưng anh vẫn về nhà, thời gian gần đây anh có ít quan tâm đến chị T. Nhưng anh xác định những mâu thuẩn trên chỉ là mâu thuẩn nhỏ, có thể hàn gắn, anh sẽ tìm việc làm và sửa đổi bản thân, quan tâm chăm sóc chị T nhiều hơn. Anh xác định hiện nay anh vẫn còn tình cảm với chị T nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Trần Ngọc M xác định giữa anh và chị T chưa có con chung.

Về tài sản chung: Anh Trần Ngọc M khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh Trần Ngọc M khai không có nợ ai và cũng không ai nợ lại anh, chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, cả hai đương sự đều đang cư trú tại thành phố Cà Mau nên vụ án được các định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại các Điều 28, 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Ngọc M đã được triệu tập hợp lệ để tham gia các phiên họp tiếp cận công khai chứng cư và hòa giải nhưng anh M vắng mặt không có lý do. Do đó, vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ T và anh Trần Ngọc M tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh M là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống chị T xác định giữa vợ chồng có nhiều mâu thuẩn, không thể tiếp tục chung sống được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Anh M cho rằng vợ chồng không có mâu thuẩn gì lớn, anh vẫn còn tình cảm và có mong muốn được hàn gắn với chị T, không đồng ý theo yêu cầu của chị T. Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, anh M xin được hàn gắn. Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân là mối quan hệ mà cả hai phải cùng có trách nhiệm và tinh thần xây dựng, thông cảm, chia sẽ lẫn nhau nhưng hiện nay chị T xác định đã không còn tình cảm với anh M và không thể tiếp tục chung sống với anh M được nữa. Mặc dù Tòa án đã động viên chị T nhưng chị không thay đổi ý kiến và thể hiện ý kiến cho dù Hội đồng xét xử có không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị thì chị cũng không tiếp tục chung sống với anh M nữa. Đồng thời, anh M thừa nhận bản thân có những vấn đề dẫn đến mâu thuẩn vợ chồng như chị T trình bày nhưng anh không đưa ra được biện pháp hàn gắn cụ thể chứng tỏ bản thân anh có sự thay đổi để chị T chấp nhận. Do đó, xét thấy nếu Hội đồng xét xử có không chấp nhận cho chị T ly hôn thì mối quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh M cũng không thể hàn gắn được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T cho chị được ly hôn với anh M.

[3] Về con chung; tài sản chung; nợ chung: Chị Lê Thị Mỹ T và anh Trần Ngọc M khai không có, không xem xét.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân gia đình chị Lê Thị Mỹ T phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147, 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, 53, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Mỹ T.

- Về hôn nhân: Chị Lê Thị Mỹ T được ly hôn với anh Trần Ngọc M.

- Về con chung: Không có, không xem xét.

- Về tài sản chung: không có, không xem xét.

- Về nợ chung: Không có, không xem xét.

2. Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Chị Lê Thị Mỹ T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 12/11/2020 chị T đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo các biên lai số 0000192 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị T, anh M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về