TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-PT NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 07/2021/TLPT-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”.
Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TA bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2021/QĐXXPT- HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1991;
Địa chỉ: Thôn PT2, xã AC, huyện TA, tỉnh Phú Yên.
Chỗ ở hiện nay: Thôn LT 2, xã BK, TP T, tỉnh Phú Yên.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn X, sinh năm 1993;
Địa chỉ: Thôn PT2, xã AC, huyện TA, tỉnh Phú Yên.
3. Người kháng cáo: Bị đơn anh Nguyễn Văn X.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 30/7/2020, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Năm 2016, chị H có chung sống thực tế như vợ chồng với anh Nguyễn Văn X, năm 2017 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã AC, huyện TA, tỉnh Phú Yên. Quá trình chung sống đến tháng 5/2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do Anh X không lo làm ăn, hay ăn nhậu, về nhà đánh đập chị, đòi giết chị. Ngoài ra, thời điểm sinh con nhỏ, do công việc làm ăn nên chị có yêu cầu dẫn hai cháu về phía cha mẹ chị để tiện việc đi làm, tuy nhiên, Anh X không đồng ý, từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn gay gắt. Từ tháng 5/2020, vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay. Nay chị H yêu cầu xin ly hôn với Anh X.
Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Gia K, sinh ngày 29/12/2016 và Nguyễn Gia A, sinh ngày 15/02/2019. Hiện nay hai cháu Khánh và An do Anh X trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu An, không yêu cầu Anh X cấp dưỡng. Riêng cháu Khánh, chị thống nhất giao cho Anh X tiếp tục nuôi dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Nguyễn Văn X trình bày:
Thời gian tìm hiểu kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn như chị H trình bày cơ bản thống nhất. Tuy nhiên vấn đề mâu thuẫn như chị H trình bày có phần không đúng, bởi lẽ thời điểm sinh con nhỏ chị H tự ý dẫn các con về nhà cha mẹ chị H sinh sống nhưng anh không đồng ý, anh thừa nhận trước đây có đánh chị H 3 lần và sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Nay anh thống nhất thuận tình ly hôn với chị H.
Về con chung: có hai con chung là Nguyễn Gia K, sinh ngày 29/12/2016 và Nguyễn Gia A, sinh ngày 15/02/2019, lâu nay do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Nay anh yêu cầu xin được tiếp tục nuôi dưỡng hai con khánh và An, không yêu cầu chị H cấp dưỡng.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 07/2021/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TA. Đã áp dụng các Điều 55, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí tòa án, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn X.
2. Về con chung:
Cháu Nguyễn Gia A, sinh ngày 15/02/2019 hiện nay đang ở với Anh X. Buộc Anh X có nghĩa vụ giao cháu An cho chị Lê Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh X không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 29/12/2016, hiện nay đang ở với Anh X. Giao cháu Khánh cho anh Nguyễn Văn X được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị H và Anh X được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các con chung, không ai được quyền cản trở. Khi cần thiết các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 07/4/2021, bị đơn anh Nguyễn Văn X có đơn kháng cáo về phần con chung.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn chị Lê Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn anh Nguyễn Văn X giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về vụ án: Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Về nội dung: đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn X, giữ nguyên bản án sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, kết quả tranh luận của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Văn X.
Về con chung: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn X có 02 con chung tên Nguyễn Gia K, sinh ngày 29/12/2016 và Nguyễn Gia A, sinh ngày 15/02/2019. Nay anh X kháng cáo xin được nuôi cả hai con chung với lý do các con lâu nay do gia đình anh nuôi dưỡng và bản thân chị H không có công ăn việc làm thu nhập ổn định nên không đủ điều kiện nuôi con. Xét việc nuôi con chung, Tòa cấp sơ thẩm đã nhận định và quyết định giao cháu Nguyễn Gia K cho Anh X nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Gia A cho chị H nuôi dưỡng với căn cứ cháu An tại thời điểm xét xử được 27 tháng tuổi còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ và và theo quy định của pháp luật tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi cần được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Tại Tòa cấp phúc thẩm chị H chứng minh hiện nay chị có việc làm có thu nhập đảm bảo việc nuôi con, Anh X kháng cáo nhưng không đưa ra cứ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Anh X, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[2] Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn X phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Văn X; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các Điều 55, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án,
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị H với anh Nguyễn Văn X.
2. Về con chung: Cháu Nguyễn Gia A, sinh ngày 15/02/2019 hiện nay đang ở với Anh X. Buộc Anh X có nghĩa vụ giao cháu An cho chị Lê Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh X không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 29/12/2016, hiện nay đang ở với Anh X. Giao cháu Khánh cho anh Nguyễn Văn X được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị H và Anh X được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các con chung, không ai được quyền cản trở. Khi cần thiết các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Văn X phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, đã nộp đủ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003509 ngày 09/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TA.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2021/HNGĐ-PT ngày 26/05/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 13/2021/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về