Bản án 13/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 12/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 đối với:

- Bị cáo: Hunh Minh P, sinh năm 1992; nơi sinh: tỉnh Vĩnh Long.

Nơi cư trú: Ấp N, xã L, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

Giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Không; cha tên Huỳnh Ngọc M (chết); mẹ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1950. Vợ Hà Thị Phương T, sinh năm 1993, có 02 con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/8/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lý Ngọc T, sinh năm 1988.

Nơi cư trú: Ấp P, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1991.

Nơi cư trú: Ấp H, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Anh Nguyễn Minh N, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Số B đường T, Phường H, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5/2016 Huỳnh Minh P đến thuê phòng số 10 nhà trọ số M đường P, Phường T, thành phố Vĩnh Long ở cùng bạn gái N. Vào ngày 01/06/2016 Nguyễn Thanh H có tổ chức sinh nhật tại nhà trọ số M, Lý Ngọc T có đến dự tiệc sinh nhật, T đến bằng xe mô tô 95E1–294.22. Sau đó thì T cùng ở lại tại phòng trọ số 10 với P, H và N, mỗi ngày cả P, H, T và N đều cùng nhau sử dụng ma túy đá tại phòng của P, trong thời gian này T giao xe cho H mượn làm phương tiện đi lại. Đến khoảng 05 giờ ngày 04/06/2016 T bị ảo giác do sử dụng ma túy đá nên để lại xe môtô và cái bóp da tại phòng số 10 rồi chạy vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Long nhảy lầu bị thương được gia đình đưa đến Bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ điều trị. Thời gian T điều trị thương tích thì xe mô tô 95E1–294.22 và bóp da của T do H cất giữ.

Ngày 06/6/2016 H dùng xe mô tô 95E1–294.22 chở Huỳnh Minh P đi hát Karaoke sau đó quay về nhà trọ ngủ. Đến 03 giờ ngày 07/6/2016 P mượn xe mô tô 95E1–294.22 để đi rước N đang đi làm tiếp thị bia để đưa về phòng trọ thì H đồng ý và giao chìa khóa xe cho P. P đi rước N trên đường về có mua ba bịch hủ tiếu để cả ba người cùng ăn, khi về đến phòng trọ P đánh thức H để trả xe và ăn hủ tiếu, do H ngủ say nên không dậy. Lúc này P nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô và cái bóp da của T mà H đang quản lý, lợi dụng lúc H đang ngủ say P lén lấy chìa khóa xe mô tô 95E1–294.22 và lấy trong bóp da đang để cạnh nơi H nằm ngủ (trong đó có số tiền 285.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe phô tô có công chứng và 01 thẻ ATM), lấy xong tài sản P kêu N cùng bỏ đi với P. Cả hai đến Bình Dương thăm con của P sau đó thuê phòng trọ ở. Đến ngày 17/6/2016 vì không có tiền tiêu xài nên P đem bán xe mô tô biển số 95E1–294.22 cho Nguyễn Minh N với giá 12.000.000 đồng, số tiền này P tiêu xài hết, sau đó về lại Vĩnh Long.

Khi thức dậy thấy xe mô tô 95E1–294.22 bị mất, P và N không có mặt trong phòng trọ nên H gọi điện thoại cho P thì không liên lạc được. Do đó H đến trình báo Công an Phường 4, thành phố Vĩnh Long toàn bộ sự việc.

Đi với Lý Ngọc T sau khi điều trị thương tích bình phục đến ngày 12/9/2016 tìm H và P để lấy tài sản thì không gặp ai nên đến Công an Phường 4, thành phố Vĩnh Long trình báo.

Quá trình xác minh đến ngày 27/10/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Long mời được Nguyễn Minh N làm việc và thu hồi lại xe môtô 95E1-294.22. Theo kết luận định giá tài sản số 143 ngày 26/12/2016 thì xe mô-tô 95E1-294.22 trị giá 39.600.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Long ra quyết định khởi tố vụ án. Quá trình điều tra Huỳnh Minh P đi khỏi địa phương không mời làm việc được nên ngày 27/12/2016 Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án. Trong thời gian bỏ trốn P trộm cắp tài sản bị Công an huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh truy nã, đến ngày 16/02/2017 Công an huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long bắt được Huỳnh Minh P theo lệnh truy nã. Ngày 24/5/2017 Tòa án huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long xử phạt P 06 tháng tù, ngày 16/8/2017 P chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 14/10/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Long phát hiện Huỳnh Minh P nên mời P làm việc thì P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội lấy trộm tài sản vào ngày 07/6/2016 tại phòng số 10 nhà trọ đường P, Phường T, thành phố Vĩnh Long nên Cơ quan điều tra phục hồi điều tra vụ án, ra Quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Huỳnh Minh P để điều tra theo quy định.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKSND.TPVL ngày 09/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 xử phạt bị cáo Huỳnh Minh P từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô 95E1-294.22 đã được thu hồi trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

Dành cho anh Nguyễn Minh N một một vụ kiện dân sự khác nếu có yêu cầu bị cáo trả lại tiền.

Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Huỳnh Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình đúng như cáo trạng đã nêu và đồng ý với tội danh mà bị cáo bị truy tố. Bị cáo không tham gia tranh luận, trong phần nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vì không có tiền tiêu xài nên vào khoảng 03 giờ ngày 07/6/2016 tại nhà trọ số M, nhà trọ đường P, Phường T, thành phố Vĩnh Long, lợi dụng đêm khuya bị cáo đã lén lút lấy trộm xe mô tô 95E1-294.22, số tiền 285.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe mô tô và 01 thẻ ATM của anh Lý Ngọc T, tài sản do anh Nguyễn Thanh H đang quản lý.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" tội danh và hình phạt được được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 39.885.000 đồng. Do khung hình phạt của điều luật cũ và mới quy định bằng nhau nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long căn cứ vào khoản 1 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là chính xác.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản người khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực để nhận thức được tài sản thuộc quyền sử hữu của người khác phải được mọi người tôn trọng, được pháp luật bảo vệ, nếu ai xâm phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Bị cáo là thanh niên, có sức khỏe nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động cực nhọc nên đã thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý gây mất trật tự xã hội và tâm lý lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, với hành vi phạm tội này bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm với một hình phạt tương ứng trong khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo được tính răn đe, giúp bị cáo cải tạo bản thân trở thành một người công dân có ích và cũng góp phần phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị hại Lý Ngọc T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô 95E1-294.22 đã được thu hồi trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Đối với Võ Thị Chúc N: Quá trình điều tra, xác minh xác định hiện N đã bỏ địa phương và đi đâu không rõ nên Cơ quan điều tra không làm việc được nên Cơ quan điều tra tách ra khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

[8] Đối với anh Nguyễn Minh N: Sau khi phục hồi điều tra vụ án thì anh Nguyễn Minh N không còn cư trú tại địa phương nên không làm việc được để làm rõ yêu cầu của anh N đối với số tiền 12.000.000 đồng đã dùng mua xe của bị cáo. Do đó, dành cho anh N một một vụ kiện dân sự khác nếu có yêu cầu bị cáo trả lại tiền.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh P 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 23/10/2019.

Trách nhiệm dân sự: Dành cho anh Nguyễn Minh N một vụ kiện dân sự khác để yêu cầu bị cáo trả lại 12.000.000 đồng.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Minh P nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về