Bản án 13/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2020/TLST-HS, ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 04 năm 2020 đối với:

* Bị cáo:

Nguyễn Thanh S, sinh năm 1982; tại: xã Chánh Hội, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; Nơi cư trú: ấp Tư, xã Chánh Hội (nay là Khóm 5, thị trấn Cái Nhum), huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hòn và bà Nguyễn Thị Mười; Anh chị em ruột: 04 người (lớn nhất sinh năm 1971, nhỏ nhất sinh năm 1984). Tiền án, tiền sự: Không.

Quá trình bản thân: Ngày 27/03/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử về tội “ Đánh bạc” tuyên phạt 02 năm tù giam, bị cáo đã chấp hành xong ngày 05/02/2009. Ngày 15/7/2016 Nguyễn Thanh Sang có hành vi đánh bạc bị công an huyện Mang Thít phạt tiền 1.500.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong ngày 19/7/2016. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 22/01/2020 đến ngày 06/3/2020 được cho tại ngoại.

Bị cáo hiện đang được tại ngoại và bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

*Người bị hại:

Nguyễn Thị Diễm Hồng, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ: ấp Tư, xã Chánh Hội (nay là Khóm 5, thị trấn Cái Nhum), huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/Nguyễn Thị Mười, sinh năm 1953 (có mặt) Địa chỉ: ấp Tư, xã Chánh Hội (nay là Khóm 5, thị trấn Cái Nhum), huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long

2/ Nguyễn Kế Tân, sinh năm 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: số 21, Đường 3/2, phường 1, TP Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh S làanh ruột của bị hại Nguyễn Thị Diễm Hồng, bị cáo làm thuê tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 23/12/2019 trở về nhà sinh sống cùng với gia đình.

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/12/2019, Sang đến sào đồ của gia đình để lấy đồ đi tắm, Sang vô tình phát hiện có 01 chiếc nhẫn xoàn trong chiếc quần thun của chị Hồng rơi xuống đất, lúc này Sang nhặt lên và tiếp tục dùng đưa tay vào túi quần thì phát hiện còn lại 01 chiếc nhẫn xoàn, nên Sang nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sang lén lút lấy 02 chiếc nhẫn xoàn bỏ vào túi quần sọt và đi đến gặp mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Mười xin 100.000 đồng và nói dối với lý do là đi mua thuốc sức nhưng Sang không có đi mua thuốc mà kêu xe honda khách đến tiệm vàng Tân Văn Minh, tọa lạc tại Phường 1, TP. Vĩnh Long cầm cho anh Nguyễn Kế Tân chủ tiệm vàng với số tiền là 50.000.000 đồng. Sau đó S đem số tiền trên lên TP. Hồ Chí Minh tham gia trò chơi điện tử và thua hết 49.000.000 đồng.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 01/01/2020, S quay về TP. Vĩnh Long tiếp tục đến tiệm vàng Tân Văn Minh đưa hợp đồng cầm đồ và yêu cầu cầm thêm số tiền 10.000.000 đồng thì bị Công an Phường 1, TP. Vĩnh Long mời làm việc. Qua quá trình làm việc thì Nguyễn Thanh S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận số: 03/KLĐGTS ngày 17/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mang Thít, xác định tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị như sau: 01 (một) nhẫn xoàn bông 6 cánh có đính hạt kim cương 0,60 Carat, cấp độ màu: I; cấp độ tinh khiết: VVS1; size: 5Li41-5Li43 có giá: 103.000.000 đồng; 01 (một) nhẫn xoàn Form tròn 3 tầng có đính hạt kim cương 0,502 Carat, cấp độ màu: E; cấp độ tinh khiết: VVS1; size 5Li15-5Li18 có giá 105.900.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị can chiếm đoạt là 208.900.000đ (hai trăm lẻ tám triệu chín trăm ngàn đồng).

Ngày 21/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít ra quyết định khởi tố bị can và ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thanh về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tích cực tác động đến gia đình khắc phục hậu quả cho người bị hại. Bị hại làm đơn bãi nại không yêu cầu xử lý đối với bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: 01 (một) nhẫn xoàn bông 6 cánh có đính hạt kim cương 0,60 Carat, cấp độ màu: I; cấp độ tinh khiết: VVS1; size: 5Li41-5Li43 và 01 (một) nhẫn xoàn Form tròn 3 tầng có đính hạt kim cương 0,502 Carat, cấp độ màu: E; cấp độ tinh khiết: VVS1; size 5Li15-5Li18. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít đã chứng minh đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Thị Diễm Hồng. Hiện nay chị Hồng đã nhận lại tài sản xong.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồng yêu cầu S phải bồi thường số tiền 50.000.000 đồng mà chị bỏ ra chuộc lại 02 chiếc nhẫn xoàn. Bị cáo S thống nhất bồi thường và đã tác động đến mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Mười tự nguyện bỏ ra số tiền 50.000.000 đồng khắc phục cho bị hại, đây là tài sản riêng của bà Mười. Hiện nay bà không có yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền này.

Đối với anh Nguyễn Kế Tân là người nhận cầm 02 chiếc nhẫn xoàn. Khi nhận cầm 02 chiếc nhẫn xoàn anh hoàn toàn không biết tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng số 16/CT-VKS. HMT ngày 30/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít là hoàn toàn đúng sự thật.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Diễm Hồng trình bày: Chị đã nhận lại hai chiếc nhận hột xoàn đã bị mất, chị xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Mười trình bày: Bà có bỏ ra số tiền 50.000.000 đồng để khắc phục hậu quả thay cho bị cáo, đây là tài sản của cá nhân bà, bà không yêu cầu bị cáo phải trả lại cho bà số tiền trên.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng và nhận định đủ yếu tố xác định các bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong, miễn xét.

Về vật chứng: Đã giải quyết xong, miễn xét.

Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận mình có tội và không có ý kiến tranh luận với lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, chứng minh được các hành vi, quyết định tố tụng đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phùhợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng, phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, đã thể hiện: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/12/2019 tại ấp Tư, xã Chánh Hội (nay là Khóm 5, thị trấn Cái Nhum), huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, bị cáo Nguyễn Thanh S đã cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 (một) nhẫn xoàn bông 6 cánh có đính hạt kim cương 0,60 Carat, cấp độ màu: I; cấp độ tinh khiết: VVS1; size: 5Li41-5Li43 và01 (một) nhẫn xoàn Form tròn 3 tầng có đính hạt kim cương 0,502 Carat, cấp độ màu: E; cấp độ tinh khiết: VVS1; size 5Li15-5Li18 có giá trị 208.900.000đ (hai trăm lẻ tám triệu chín trăm ngàn đồng) của chị Nguyễn Thị Diễm Hồng một cách trái pháp luật.

Bị cáo là người đủ tuổi và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản của bị hại một cách trái pháp luật, đã xâm hại đến khách thể của Bộ luật hình sự bảo vệ. Do đó, đã đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo S đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[3]. Tính chất, mức độ: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu của bị hại một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an địa phương, gây mất đoàn kết trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa, nên cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình khắc phục hậu quả. Nên khi lượng hình bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5]. Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít đã chứng minh hai chiếc nhẫn hột soàn là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Thị Diễm Hồng. Chị Hồng đã nhận lại tài sản xong.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu, miễn xét.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/BTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lýsử dụng án phí lệ phí Tòa án, buộc bị cáo S nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[8]. Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đã xem xét đến các chứng cứ được đưa ra thẩm tra tại phiên tòa, đã đánh giá đúng hành vi, tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo. Về đề nghị mức hình phạt, đại diện Viện kiểm sát đã xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Do đó, chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Nguyễn Thanh S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tùtính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành bản án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 22/01/2020 đến ngày 06/03/2020.

2.Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu, miễn xét

3.Về vật chứng: Đã xử lýxong, miễn xét

4.Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/BTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc Nguyễn Thanh S nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì nguời được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cóquyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Tuyên án có mặt bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về