Bản án 13/2020/HS-ST ngày 09/07/2020 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

 BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Ngày 09 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/TLST ngày 09 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Trọng Đ; Giới tính: Nam.

Tên gọi khác: (không). Sinh năm 1992. Tại Nghệ an.

Nơi ĐKHKTT: Xã P– Đ– Lâm Đồng.

Nơi ở: Thôn P– P– Đ– Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Làm nông.

Họ tên cha: Võ Trọng H ( Đã chết). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1972. Anh, chị, em ruột: Có 03 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2000. Vợ: Lương Thị Như Ý, sinh năm 1991. Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2015. Hiện vợ, con đang sinh sống tại xã P– Đ– L. Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 26/8/2019 bị Hạt kiểm lâm huyện Đ xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép.

Nhân thân: Ngày 26/8/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 10.000.000đ về hành vi đánh bạc.

Bị cáo bị bắt tạm giam lần thứ nhất từ ngày 25 tháng 12 năm 2019 đến ngày 21 tháng 01 năm 2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lãnh; lần thứ 2 từ ngày 04 tháng 5 năm 2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Nguyên đơn dân sự: Ban quản lý rừng phòng hộ P, huyện Đ, tình Lâm Đồng Địa chỉ: xã Phi Liêng, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng - Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: Ông Nguyễn Văn Q; chức vụ:

trưởng ban quản lý rừng phòng hộ P.

Ủy quyền cho ông Nguyễn Trọng T. Chức vụ: trưởng phòng kỹ thuật, quản lý bảo vệ rừng.

Có mặt tại phiên tòa

* Người có nghĩa liên quan:

1. bà Nguyễn Thị P;Sinh năm: 1972;

2. bà Lương Thị Như Ý; Sinh năm: 1991;

Chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

Ông Hồ Ngọc C. Sinh năm: 1988.

Trú tại: Khu phố Bnơ A – TT L– huyện L– Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa Ông Đinh Văn D. Sinh năm: 1975.

Trú tại: Thôn P– Phi Liêng – Đ– Lâm Đồng. Có mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 17/10 năm 2019, bà Nguyễn Thị P sinh năm: 1972, trú tại thôn P– P mua 15 hộp gỗ của người H’ Mông với giá là 1.200.000đ, sau khi mua xong bà P để lại tại nghĩa địa thôn P– P, đến 15 giờ ngày 18/10/2019 bà P nói với Võ Trọng Đ là con trai của bà đi chở gỗ về để sửa nhà, đến 17 giờ cùng ngày, Đ điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu Hyunday, biển kiểm soát 47C – 011.48 một mình đi vào khu Nghĩa địa thôn P bốc 15 hộp gỗ lên xe, khoảng 15 phát sau thì xong, sau đó Đ điều khiển xe ô tô chở gỗ về nhà. Khi đi được 01 km thì gặp tổ tuần tra của Hạt kiểm lâm Đ phối hợp với UBND xã P và công an xã P do ông Hồ Ngọc C kiểm lâm viên dẫn đầu. Lúc này ông C ra hiệu cho Đức dừng xe để kiểm tra, nhưng Đ không chấp hành mà tiếp tục điều khiển xe ô tô bỏ chạy và va quẹt với xe Mô tô của ông Hồ Ngọc C, đ điều khiển xe ô tô đến khu vực thôn B – P rồi dừng xe, tắt máy, đóng cửa xe rồi đi bộ về nhà. Hạt kiểm lâm huyện Đ đã lập biên bản tạm giữ xe Ô tô và đo đếm gỗ trên xe được 15 hộp gỗ, chủng loại gỗ thông ba lá ( nhóm IV), tổng khối lượng là 1,553 m3.

Quá trình điều tra xác định: Trước đó ngày 26/8/2019, Đ đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép bằng hình thức phạt tiền 10.000.000đ, đến ngày 19/11/2019 mới chấp hành nộp phạt.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 05 tháng 3 năm 2020 của viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố Võ Trọng Đ về Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố, các bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát.

Nguyên đơn dân sự là ban quản lý rừng phòng hộ P đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý các bị cáo Võ Trọng Đ với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Trọng Đ phạm tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m khoản 1 điều 232, điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51, điều 38 bộ luật hình sự, xử phạt Võ Trọng Đ 03 tháng 05 ngày tù.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị P, ngày 18/10/2019 bị cáo Võ Trọng Đ đã điều kiển xe ô tô Hyundai biểm kiểm soát 47C – 011.48 đến Nghĩa địa thôn P bốc 15 hộp gỗ thông ba lá để chở về nhà, trên đường vận chuyển gỗ về nhà gặp tổ tuần tra yêu cầu dừng xe, nhưng Đ không chấp hành mà còn tiếp tục bỏ chạy. Ngoài ra trước đó vào ngày 26/8/2019 bị cáo Đ đã bị Hạt kiểm lâm xử lý hành chính 10.000.000đ về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Võ Trọng Đ về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” theo điểm m khoản 1 Điều 232 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các bản cung của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Võ Trọng Đ biết rõ bản thân đã bị hạt kiểm Lâm xử lý hành chính về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép, nhưng khi bà P là mẹ bị cáo yêu cầu bị cáo tiếp tục vận chuyển 1,553 m2 gỗ thông ba lá thuộc nhóm IV, khi tổ tuần tra yêu cầu dừng xe để kiểm tra, thì bị cáo không chấp hành, như vậy hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến quy định của nhà nước về khai thác bảo vệ rừng và Lâm sản. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên môi trường, làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, do đó cần phải xử lý bị cáo với mức án tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo [2] Xét về nhân thân của bị cáo đã có 01 tiền sự, bị cáo cũng đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 10.000.000đ về hành vi đánh bạc, nhưng không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo, tính chất và mức độ thiệt hại không đáng kể, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, không có khả năng để thi hành hình phạt bổ sung, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Võ Trọng Đ.

Trong vụ án này còn có bà Nguyễn Thị P là người trực tiếp mua 1,553 m3 gỗ. Nhưng qua tra cứu thông tin thì bà P chưa bị xử lý hành chính, nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với bà P. Hạt kiểm Lâm đã ra quyết định lý hành chính đối với bà P là hoàn toàn có căn cứ.

[4] Về vật chứng của vụ án: cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý, nên Hội đồng xét xử không đạt ra để xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Miễn án phí DSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên; Xử:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Võ Trọng Đ phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rng và lâm sản”.

Áp dụng điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015. Xử phạt bị cáo: Võ Trọng Đ 03 ( ba ) tháng 05 ( năm ) ngày tù, thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam.

Ra quyết định trả tự do ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo Võ Trọng Đ không bị tạm giam về một hành vi phạm tội phạm khác.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Võ Trọng Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn; kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/7/2020) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 09/07/2020 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về