Bản án 13/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn L, sinh ngày: 28/12/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: không có; chỗ ở hiện nay: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn L (chết) và bà: Nguyễn Thị L (chết); vợ Lê Thị Ngọc A (chết), có 01 con tên Lê Kim L, sinh năm 2011; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/7/2008, bị Công an Quận 4 bắt về tội “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 02 năm tù; ngày 21/8/2011, bị Công an Quận 3 bắt về tội “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 04 năm tù; ngày 03/02/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 8 ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng; bị bắt giữ ngày: 08/10/2019.

- Bị hại:

(Bị cáo có mặt).

Ông Đoàn Tấn D, sinh năm: 1984 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Mỹ Phú Đông, xã A, huyện B, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 ngày 08/10/2019, đối tượng tên Tý không rõ lai lịch, địa chỉ điều khiển xe mô tô biển số 70F3-7329 chở bị cáo Lê Văn L lưu thông trên đường Vĩnh Viễn, khi tới trước Cao ốc B, Chung cư Nguyễn Kim, Phường 7, Quận 10, tên Tý nhìn thấy ông Đoàn Tuấn D ngồi trên lề đường, trên tay ông D cầm 02 chiếc điện thoại nên Tý rủ L cướp giật tài sản thì bị cáo L đồng ý. Tý điều khiển xe mô tô áp sát trước mặt ông D còn bị cáo Long dùng tay trái giật 02 chiếc điện thoại di động. Giật được điện thoại Tý liền tăng ga bỏ chạy thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ được bị cáo L, riêng Tý chạy thoát. Công an Phường 7, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra xử lý.

Tài sản bị chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại (01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A70). Tại Kết luận định giá tài sản số 947/KL-ĐGTS ngày 13/11/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự -Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: 02 chiếc điện thoại trên có tổng giá trị là 7.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả lại tài sản cho ông Đoàn Tuấn D. Nhận lại tài sản, ông D không có yêu cầu gì khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Lê Văn L về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Quá trình điều tra, bị cáo Lê Văn L khai nhận hành vi như trên.

Đối với 01 xe môtô hiệu Wave@ biển số 70F3-7329. Tại Kết luận giám định số 8345/KLGĐ-X(Đ6) ngày 21/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Số khung, số máy của chiếc xe trên bị mất, không xác định được số nguyên thủy. Qua xác minh biển số xe 70F3-7329, được biết là của xe môtô hiệu Way Thai có số khung: RRKWCHYUM5X-010111, số máy: VTTJL1P52FMH-010111 do ông Nguyễn Huy Bình đứng tên chủ sở hữu. Ông Bình khai ông là người chủ sở hữu phương tiện. Năm 2009, ông bán lại cho một người khác nhưng không nhớ tên, địa chỉ và không làm giấy mua bán nên Công an Quận 10 đã tạm giữ chiếc xe mô tô trên.

Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKSQ10 ngày 05 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Lê Văn L về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đối với xã hội, bị hại và nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại), nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Lê Văn L từ 03 năm 6 tháng đến 4 năm tù, phạt bổ sung bị cáo với số tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Văn L đã có hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai cướp giật tài sản của bị hại ngay trên đường phố, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra bị cáo còn có nhân thân không tốt, ngày 24/7/2008, bị Công an Quận 4 bắt về tội “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 02 năm tù; ngày 21/8/2011, bị Công an Quận 3 bắt về tội “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 04 năm tù; ngày 03/02/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 8 ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng, điều này chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật, khi có điều kiện là tiếp tục phạm tội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo lần này cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương. Ngoài ra áp dụng khoản 5 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) phạt bổ sung bị cáo L một số tiền để nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo có hoàn cảnh đáng thương, cha mẹ và vợ đều đã chết, bị cáo có con còn nhỏ; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo .

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi giao trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy Hội đồng xét xử không có gì để giải quyết.

Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 70F3-7329 (loại xe: hai bánh, nhãn hiệu: Wave@, số khung: Không xác định, số máy: Không xác định, xe bị gãy phuộc trước làm bánh xe trước rời ra); lưu hành bất hợp pháp, là phương tiện dùng vào việc phạm tội; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2, 5 Điều 171; điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Lê Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2019.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe môtô biển số 70F3-7329 (loại xe: hai bánh, nhãn hiệu: Wave@, số khung: Không xác định, số máy: Không xác định, xe bị gãy phuộc trước làm bánh xe trước rời ra).

(Tình trạng vật chứng Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/02/2020 giữa Công an Quận 10 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lê Văn L chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án:

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với các bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về