TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 13/2020/HS-PT NGÀY 06/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 06/02/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 292/TLPT-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V, do có kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 65/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Văn N, sinh năm 1982.
Nơi cư trú: Thôn C, xã L, huyện H, tỉnh B.
Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa: lớp 9/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không.
Con ông: Trần Văn T, sinh năm 1952. Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1952. Vợ: Lê Thị H, sinh năm 1985.
Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013 Gia đình có 03 anh em ruột, bị cáo là thứ 03.
Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 21/01/2019 đến ngày 30/01/2019 bị áp dụng biện pháp ngăn chăn cấm đi khỏi nơi cư trú ( Có mặt tại phiên toà).
2. Họ và tên: Nguyễn Văn V, sinh năm 1984.
Nơi cư trú: Thôn C, xã L, huyện H, tỉnh B.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Đoàn thể, đảng phái: Là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng kể từ ngày 01/7/2019 theo Quyết định số 160-QĐ/UBKTHU ngày 01/8/2019 của Uỷ ban kiểm tra huyện uỷ Hiệp Hoà.
Con ông: Nguyễn Văn C (Đã chết). Con bà: Vũ Thị L1, sinh năm 1964. Vợ: Dương Thị L2, sinh năm 1984.
Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2009.
Gia đình có 02 anh em ruột, bị cáo là thứ nhất. Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Vắng mặt tại phiên toà).
Ngoài ra trong vụ án còn có 04 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không có kháng nghị của Viện kiểm sát nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 05 phút ngày 21/01/2019, tại nhà ở của Trần Văn N, sinh năm 1982 ở thôn C, xã L, huyện H, tỉnh B Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Trần Văn N đang có hành vi bán các số lô, số đề cho Nguyễn Quang N1, sinh năm 1993 ở thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh B (Tổng số tiền N1 đánh bạc với N là 4.020.000 đồng, N đã ghi ra cáp đề và đang nhận tiền của N1). Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại bàn ghi lô đề số tiền 3.900.000 đồng, 01 tờ cáp đề có ghi các chữ và số (ký hiệu A2), 01 bút bi mầu xanh; Thu giữ trên người N1 01 tờ cáp đề có ghi các chữ và số ( ký hiệu A1); N tự nguyện giao nộp 04 tờ giấy đề can 01 mặt có in chữ quảng cáo Quang Huy, 01 mặt mầu vàng và 7.900.000 đồng.
Ngay sau khi bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của N. Kết quả, thu giữ tại giường ngủ phía trong nhà 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 6 mầu trắng, lắp số sim 0968009066: Thu tại bàn uống nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; Thu tại áo khoác trong phòng ngủ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung mầu hồng; Thu tại bàn uống nước 01 sổ giấy kẻ ngang, bên trong có 05 trang ghi các chữ và số ( ký hiệu từ A3 đến A6).
Căn cứ lời khai của Trần Văn N, Cơ quan điều tra đã kiểm tra điện thoại thu giữ của N. Tiến hành lấy lời khai những người liên quan và thu giữ của Nguyễn Văn V, sinh năm 1984 ở thôn C, xã L, huyện H 01 điện thoại di động Iphon6s plus mầu golld có lắp số sim 0987753862.
Quá trình điều tra xác định được hành vi phạm tội của các bị cáo như sau: Lợi dụng việc Nhà nước tổ chức giải xổ số kiến thiết Miền Bắc và thông báo kết quả mở thưởng hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trần Văn N đã đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi "Lô, đề". Để thực hiện hành vi đánh bạc, N trực tiếp ghi các số lô, đề cho khách tại nhà. Từ ngày 04/01/2019 đến ngày 21/01/2019, N ghi và nhận trực tiếp các số lô, số đề của Nguyễn Văn V (bằng hình thức nhắn tin) và một số người khác, sau đó tổng hợp chung số lô, số đề đã ghi được. Khoảng 18 giờ 05 phút ngày 21/01/2019, N đang ghi các số lô, đề cho N1 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang.
Hình thức đánh bạc (lô, đề) của các đối tượng tham gia đánh bạc là cá cược hai, ba số cuối của các giải xổ số kiến thiết miền bắc với tỉ lệ được thua cao để sát phạt nhau và thu lợi bất chính. Cụ thể như sau:
Dạng thứ nhất: Đặt cược hai số cuối của giải đặc biệt, nếu người chơi đề trúng cược sẽ được trả gấp 80 lần số tiền đặt cược, nếu thua cược thì sẽ mất số tiền đó.
Dạng thứ hai: Đặt cược hai số cuối của giải nhất ( còn gọi là nhất to), nếu người chơi đề trúng cược sẽ được trả gấp 80 lần số tiền đặt cược, nếu thua cược thì sẽ bị mất số tiền đó.
Dạng thứ ba: Đặt cược hai số cuối của giải đặc biệt và giải nhất với cùng một số ( còn gọi là chơi 02 cửa). Tức là cách chơi một số đề cho cả hai cách chơi nhứ nhất và thứ hai.
Dạng thứ tư: Đặt cược cho 03 số cuối của giải đặc biệt hoặc giải nhất (còn gọi là chơi 03 số hay 03 càng). Nếu người chơi trúng cược sẽ được trả 400 lần số tiền đặt cược, nếu thua cược thì sẽ bị mất số tiền đó.
Dạng thứ năm: Đặt cược 02 số cuối của tất cả các giải xổ số ( còn gọi là chơi lô), nếu người chơi trúng cược sẽ được trả 80.000 đồng/01 điểm lô/01 nháy ( mỗi điểm lô người chơi phải bỏ ra 23.000 đồng, mỗi nháy tương ứng với việc số đặt cược trùng với hai số cuối của một giải xổ số, nhưng khống chế được trúng tối đa 3 nháy) Dạng thứ sáu: Đặt cược bộ số gồm 2 số, 3 số có hai chữ số (từ 00 đến 99) để so sánh với hai số cuối của tất cả các giải xổ số ( gọi là chơi lô xiên: xiên 2, xiên 3). Nếu trúng bộ 2 số ( xiên 2) thì người chơi được trả gấp 10 lần số tiền đặt cược; nếu trúng bộ 3 số ( xiên 3) thì người chơi được trả gấp 40 lần số tiền đặt cược, nếu thua cược sẽ bị mất số tiền đó.
Hành vi đánh bạc của Trần Văn N và Nguyễn Văn V như sau:
1. Hành vi đánh bạc của Trần Văn N:
Lợi dụng việc nhà nước tổ chức giải xổ số kiến thiết Miền Bắc và thông báo kết quả mở thưởng hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, từ ngày 04/01/2019 đến ngày 21/01/2019, N trực tiếp đánh bạc với khách bằng hình thức ghi lô, đề cho khách tại nhà (nhắn tin qua điện thoại và khách trực tiếp đến nhà N ghi). N ghi cho khách 22.000 đồng đến 23.000 đồng/01 điểm lô; các loại đề khác N ghi bằng số tiền trên cáp. Cụ thể như sau:
Ngày 04/01/2019, N đánh bạc với Nguyễn Văn V số tiền 8.400.000 đồng;
Ngày 05/01/2019, N đánh bạc với V với số tiền 7.300.000 đồng; Ngày 06/01/2019, N đánh bạc với V số tiền 8.400.000 đồng;
Ngày 07/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền 11.860.000 đồng ( trong đó đánh bạc với V 11.300.000 đồng, với một người đàn ông không quen biết 560.000 đồng) Ngày 08/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền 13.205.000 đồng ( trong đó đánh bạc với V 12.400.000 đồng, với một người đàn ông không quen biết 805.000 đồng).
Ngày 09/01/2019, N đánh bạc với V với số tiền 20.400.000 đồng;
Ngày 10/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền 4.450.000 đồng (Trong đó đánh bạc với V 3.300.000 đồng, một người đàn ông không quen biết 1.150.000);
Ngày 11/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền 20.025.000 đồng (Trong đó đánh bạc với V 18.600.000 đồng, 02 người đàn ông không quen biết 1.210.000 đồng);
Ngày 12/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền là 13.350.000 đồng (Trong đó đánh bạc với V 12.400.000 đồng, một người đàn ông không quen biết 950.000 đồng);
Ngày 13/01/2019, N đánh bạc với tổng số tiền là 17.205.000 đồng (trong đó đánh bạc với V là 16.400.000 đồng, một người đàn ông không quen biết 850.000 đồng);
Ngày 14/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 12.730.000 đồng( trong đó đánh bạc với V 12.500.000 đồng, một người đàn ông không quen biết 230.000 đồng);
Ngày 15/01/2019, N đánh bạc với số tiền 5.960.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 5.500.000 đồng, một người đàn ông không quen biết 460.000 đồng);
Ngày 16/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 7.815.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 7.700.000 đồng, một người đàn ông không quen biết có số điện thoại 115.000 đồng);
Ngày 17/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 7.220.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 5.500.000 đồng, và một người theo N khai là Chu Văn H1, sinh năm 1987 ở thôn C, xã L 115.000 đồng);
Ngày 18/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 22.185.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 21.500.000 đồng, và một người đàn ông không quen biết 685.000 đồng);
Ngày 19/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 24.060.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 20.200.000 đồng, hai người đàn ông không quen biết 2.140.000 đồng và Chu Văn H1, sinh năm 1987 ở thôn C, xã L 1.720.000 đồng);
Ngày 20/01/2019, N đánh bạc với số tiền là 14.985.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 8.400.000 đồng, Nguyễn Văn T1, sinh năm 1974 ở thôn C, xã L 65.000 đồng, 02 người đàn ông không quen biết 4.000.000, đồng, Chu Văn H1, sinh năm 1987 ở thôn C xã L 2.520.000 đồng);
Ngày 21/01/2019, N đánh bạc số tiền 10.685.000 đồng (trong đó đánh bạc với V 4.400.000 đồng, Ngô Văn Q, sinh năm 1973 ở khu 3, thị trấn T 1.580.000 đồng, Nguyễn Quang N1, sinh năm 1993 ở thôn Đ, xã N, huyện T 4.020.000 đồng, Nguyễn Văn T1, sinh năm 1974 ở thôn C, xã L, huyện Hiệp Hòa 65.000 đồng, 02 người đàn ông không quen biết 160.000 đồng...) 2. Hành vi đánh bạc của Nguyễn Văn V:
Do quen biết với Trần Văn N và biết N có nhận ghi các số lô, đề nên từ ngày 04/01/2019 đến ngày 21/01/2019 V đã sử dụng điện thoại di động lắp sim số 0987.753.862 nhắn tin vào số điện thoại 0968.009.066 của Trần Văn N để ghi các số lô, số đề. Cụ thể:
Ngày 04/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 8.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng);
Ngày 05/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 7.300.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 3.300.000 đồng; tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng);
Ngày 06/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 8.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng);
Ngày 07/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 11.300.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 3.300.000 đồng; tiền trúng thưởng 8.000.000 đồng);
Ngày 08/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 12.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 8.000.000 đồng);
Ngày 09/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 20.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 16.000.000 đồng);
Ngày 10/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 3.300.000 đồng (V không trúng thưởng);
Ngày 11/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 18.600.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 6.600.000 đồng; tiền trúng thưởng 12.000.000 đồng);
Ngày 12/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 12.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 8.000.000 đồng);
Ngày 13/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 16.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 12.000.000 đồng);
Ngày 14/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 12.500.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.500.000 đồng; tiền trúng thưởng 8.000.000 đồng);
Ngày 15/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 5.500.000 đồng (V không trúng thưởng);
Ngày 16/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 7.700.000 đồng (V không trúng thưởng);
Ngày 17/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 5.500.000 đồng (V không trúng thưởng);
Ngày 18/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 21.500.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 5.500.000 đồng; tiền trúng thưởng 16.000.000 đồng);
Ngày 19/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 20.200.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 8.200.000 đồng; tiền trúng thưởng 12.000.000 đồng);
Ngày 20/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 8.400.000 đồng (trong đó tiền ghi lô đề là 4.400.000 đồng; tiền trúng thưởng 4.000.000 đồng);
Ngày 21/01/2019, V đánh bạc với N với tổng số tiền 4.400.000 đồng;
Trong các lần đánh bạc trên, V và N ghi nhận nợ bằng tin nhắn, chưa thanh toán với nhau số tiền đánh bạc.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã tiến hành kiểm tra chiếc điện thoại di động Iphon6 thu giữ của N có lắp số sim 0968009066. Kết quả có thể hiện việc gửi, nhận tin nhắn đánh bạc với số điện thoại 0987753862 của V và một số số điện thoại khác (BL 126-138) Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ viết, chữ số trên các tài liệu đã thu thập được. Tại Kết luận giám định số 121/KL-PC54 ngày 24/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “Chữ viết, chữ số trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A2 đến A6 so với chữ viết, chữ số của Trần Văn N trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1 đến M4 do cùng một người viết ra; Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ viết, chữ số của Trần Văn N trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M4 không phải do cùng một người viết ra” ( BL 55-56) Đối với quyển sổ giấy kẻ ngang có 05 trang ( 04 tờ giấy sổ) ghi các chữ và số, N khai nhận là sổ của N, N dùng để ghi nháp, không liên quan đến việc đánh bạc nên không có căn cứ xử lý.
Đối với hành vi đánh bạc ngày 20 và 21/01/2019 của Nguyễn Văn T1; ngày 21/01/2019 của Ngô Văn Q; Nguyễn Quang N1; Nguyễn Văn V ngày 10 và 21/01/2019; Trần Văn N ngày 10/01/2019 số tiền ít, chưa đủ định lượng và các đối tượng đều chưa có tiền án tiền sự. Cơ quan điều tra đã đề nghị Trưởng công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Quý, N1, T1, V, N về hành vi đánh bạc các ngày nêu trên.
Đối với Chu Văn H1, N khai dùng số điện thoại 0977244587 nhắn tin đánh bạc với N và các số điện thoại 0335297463; 0335297769; 0962843685 N khai nhắn tin đánh bạc với N. Qua điều tra, xác minh Hợp không thừa nhận đánh bạc với N, qua tra cứu số điện thoại trên đăng ký tên Hà Thị Thu H2, sinh năm 1992 ở N, H. Hiện H2 không có mặt ở địa phương; số điện thoại 0335297769 đăng ký tên Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1984 ở thị trấn T, huyện H; số điện thoại 0362374463 đăng ký tên Ngô Hữu T2, sinh năm 1980 ở An Ninh, Tiền Hải, Thái Bình; Số điện thoại 0962843685 đăng ký tên Ngô Văn B1, sinh năm 1981 ở thôn H, xã H, huyện H. Qua xác minh các đối tượng không có mặt ở địa phương nên tách ra xem xét xử lý sau.
Tại bản Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hoà truy tố các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V về tội “ Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 65/2019/HS-ST ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 21/01/2019 đến ngày 30/01/2019).
Phạt tiền: 15.000.000( mười lăm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Phạt tiền: 10.000.000( mười triêu) đồng để sung quỹ nhà nước.
Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 17/10 /2019, các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V đều kháng cáo bản án sơ thẩm cùng với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo hoặc giảm nhẹ hình phạt tù.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Trần Văn N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo Nguyễn Văn V vắng mặt.
Bị cáo Trần Văn N trình bày lý do kháng cáo là bị cáo có bố mẹ già, vợ ốm yếu, bị cáo là lao động chính phải nuôi hai con còn nhỏ.
Bị cáo Nguyễn Văn V vắng mặt, Hội đồng xét xử đã công bố nội dung kháng cáo của bị cáo vinh tại phiên toà phúc thẩm.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà các bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Án phí: Các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Trần Văn N không tranh luận gì. Bị cáo Nguyễn Văn V vắng mặt.
Bị cáo Trần Văn N nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên xác định là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Bị cáo Nguyễn Văn V kháng cáo đã được Toà án triệu tập phiên toà hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, không có kháng cáo, kháng nghị tăng hình phạt gây bất lợi cho bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo V theo điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V thì thấy: Hồi 18 giờ 05 ngày 21/01/2019, tại nhà ở của Trần Văn N, sinh năm 1982 ở thôn C, xã L, huyện H, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Trần Văn N đang có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán các số lô, số đề cho Nguyễn Quang N1, sinh năm 1993 ở thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh B. Quá trình điều tra đã chứng minh được Trần Văn N và Nguyễn Văn V đã đánh bạc trái phép cụ thể thư sau:
Đối với Trần Văn N: Ngày 04/01/2019, đánh bạc với số tiền 8.400.000 đồng; Ngày 05/01/2019 đánh bạc với số tiền 7.300.000 đồng; Ngày 06/01/2019 đánh bạc với số tiền 8.400.000 đồng;Ngày 07/01/2019, đánh bạc với tổng số tiền 11.860.000 đồng; Ngày 08/01/2019 đánh bạc với tổng số tiền 13.205.000 đồng; Ngày 09/01/2019 đánh bạc với số tiền 20.400.000 đồng; Ngày 11/01/2019 đánh bạc với tổng số tiền 20.025.000 đồng; Ngày 12/01/2019 đánh bạc với tổng số tiền là 13.350.000 đồng; Ngày 13/01/2019 đánh bạc với tổng số tiền là 17.205.000 đồng; Ngày 14/01/2019 đánh bạc với số tiền là 12.730.000 đồng; Ngày 15/01/2019 đánh bạc với số tiền 5.960.000 đồng; Ngày 16/01/2019 đánh bạc với số tiền là 7.815.000 đồng; Ngày 17/01/2019 đánh bạc với số tiền là 7.220.000 đồng; Ngày 18/01/2019 đánh bạc với số tiền là 22.185.000 đồng; Ngày 19/01/2019 đánh bạc với số tiền là 24.060.000 đồng; Ngày 20/01/2019 đánh bạc với số tiền là 14.985.000 đồng; Ngày 21/01/2019 đánh bạc số tiền 10.685.000 đồng Đối với Nguyễn Văn V: Ngày 04/01/2019 đánh bạc với số tiền 8.400.000 đồng; Ngày 05/01/2019 đánh bạc với số tiền 7.300.000 đồng; Ngày 06/01/2019 đánh bạc với số tiền 8.400.000 đồng; Ngày 07/01/2019 đánh bạc với số tiền 11.300.000 đồng; Ngày 08/01/2019 đánh bạc với số tiền 12.400.000 đồng; Ngày 09/01/2019 đánh bạc với số tiền 20.400.000 đồng; Ngày 11/01/2019 đánh bạc với số tiền 18.600.000 đồng; Ngày 12/01/2019 đánh bạc với số tiền 12.400.000 đồng; Ngày 13/01/2019 đánh bạc với số tiền 16.400.000 đồng; Ngày 14/01/2019 đánh bạc với số tiền 12.500.000 đồng; Ngày 15/01/2019 đánh bạc với số tiền 5.500.000 đồng; Ngày 16/01/2019 đánh bạc với số tiền 7.700.000 đồng; Ngày 17/01/2019 đánh bạc với số tiền 5.500.000 đồng; Ngày 18/01/2019 đánh bạc với số tiền 21.500.000 đồng; Ngày 19/01/2019 đánh bạc với số tiền 20.200.000 đồng; Ngày 20/01/2019 đánh bạc với số tiền 8.400.000 đồng.
Như vậy, hành vi của Trần Văn N và Nguyễn Văn V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử các bị Trần Văn N và Nguyễn Văn V về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[4] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo chỉ có yêu cầu kháng cáo xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo hoặc giảm nhẹ hình phạt tù cho các bị cáo nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.
Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V đều có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “ Phạm tội 2 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo V có thời gian tham gia quân đội và trong thời gian tham gia công tác tại địa phương được tặng thưởng nhiều Giấy khen nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Đồng thời là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh số lô, số đề là trái phép và sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng vì động cơ vụ lợi các bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thể hiện sự coi thường pháp luật. Việc truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Văn N mức án 18 ( Mười tám) tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn V mức án 12 ( Mười hai) tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội, không nặng đối với các bị cáo.
Trong quá trình xét xử phúc thẩm các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V không xuất trình thêm được tài liệu chứng cứ mới để xem xét đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo đối với các bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 21/01/2019 đến ngày 30/01/2019).
Phạt tiền: 15.000.000( mười lăm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Phạt tiền: 10.000.000( mười triêu) đồng để sung quỹ nhà nước.
[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Văn V mỗi bị cáo phải chịu 200.000đông (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2020/HS-PT ngày 06/02/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 13/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về