TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH L
BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ XIN LY HÔN
Trong ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở tòa án. TAND huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 79/2020/TLST-HNGĐ, ngày 29/4/2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 07/5/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Võ Thị Mỹ Â, sinh năm: 1992 (có mặt). Cư trú: ấp Thuận Hòa, xã TÂ Đức, huyện D, tỉnh C.
Bị đơn: Nguyễn Văn Ph, sinh năm: 1985 (có mặt).
Cư trú: ấp Hải Hưng, xã H, huyện T, tỉnh L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn và trong quá trình xét xử chị Võ Thị Mỹ Â trình bày nội dung vụ kiện như sau:
Chị Â và Anh Nguyễn Văn Ph chung sống với nhau vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh L. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng từ năm 2018 đến nay thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do Anh Ph có người phụ nữ khác, nên thường xuyên kiếm chuyện gây gổ, cãi vã và có những lời lẽ hăm dọa đòi giết chị Â. Chị Â về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 02/2020 đến nay. Nay chị Â xét thấy cuộc sống gia đình không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn với Anh Ph.
- Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/8/2014. Hiện đang sống cùng Anh Ph, sau ly hôn chị Â đồng ý để cháu A cho Anh Ph tiếp tục nuôi dưỡng, chị Â không cấp dưỡng.
- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn Anh Nguyễn Văn Ph trình bày:
Qua lời trình bày của chị Â về thời gian và điều kiện kết hôn, Anh Ph đồng ý. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng từ tháng 02/2020 thì chị Â bỏ nhà đi đến nay. Nay chị Â yêu cầu ly hôn, nhưng do còn thương vợ con, nên Anh Ph không đồng ý ly hôn.
- Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/8/2014.
Hiện đang sống cùng Anh Ph.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: tại phiên tòa chị Â và Anh Ph thống nhất trình bày là vợ chồng chung sống với nhau vào 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T vào ngày 16/9/2014, nên cuộc hôn nhân của chị Â và Anh Ph là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống giữa vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị Â là do Anh Ph có quan hệ người với người phụ nữ khác nên thường xuyên gây gổ, cãi vã và còn có những lời lẽ hăm dọa chị Â, nên giữa vợ chồng cắt đứt quan hệ từ tháng 02/2020 cho đến nay. Nay chị Â xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu ly hôn. Nhưng Anh Ph trình bày mặc dù giữa vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nhưng còn thương vơ, con nên không đồng ý ly hôn.
Xét thấy thời gian giữa chị Â và Anh Ph cắt đứt quan hệ tình cảm vợ chồng từ tháng 02/2020 cho đến nay mặc dù thời gian không dài, nhưng Anh Ph cũng thừa nhận là Anh không có động tác nào để thể hiện thiện chí hàn gắn lại hạnh phúc, cải thiện mối quan hệ vợ chồng và từ tháng 02/2020 cho đến nay giữa vợ chồng cũng không gặp nhau, do đó nếu kéo dài cuộc sống chung vợ chồng thì mục đích hôn nhân không đạt được. Nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Â là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 56 của luật hôn nhân và gia đình.
[2] Về con chung: chị Â và Anh Ph trình bày thống nhất là quá trình chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/8/2014 hiện đAnh sống cùng Anh Ph và gia đình Anh Ph. Khi ly hôn chị Â đồng ý để Anh Ph tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện cháu A đang sống cùng Anh Ph nên đã quen với nếp sống và để ổn định cuộc sống, cũng như tinh thần cháu A, nên giao con chung cho Anh Ph được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của luật hôn nhân và gia đình. Về phần cấp dưỡng nuôi con, do tại phiên tòa Anh Ph không đồng ý ly hôn và chị Â cũng không đồng ý cấp dưỡng, nên phần cấp dưỡng tách ra giải quyết thành một vụ kiện khác khi Anh Ph có yêu cầu.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: chị Â không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về án phí: chị Â phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 58; các Điều 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ Â.
1. Về hôn nhân: Chị Võ Thị Mỹ Â được ly hôn với Anh Nguyễn Văn Ph.
2. Về con chung: giao cho Anh Nguyễn Văn Ph được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung tên: Nguyễn Thiên A, sinh ngày 13/8/2014. Chị Võ Thị Mỹ Â không cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được quyền cản trở. Trong trường hợp khi có yêu cầu của cha; mẹ; người th thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về án phí: chị Võ Thị Mỹ Â phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000870, ngày 29/04/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T .
Án xử sơ thẩm công khai có mặt các đương sự, báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án.
Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 21/05/2020 về xin ly hôn
Số hiệu: | 13/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về