Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 17/03/2020 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 17 tháng 03 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 459/2019/TLST-HNGĐ ngày 13-12-2019 về “Không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 03 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ánh T - Sinh năm 1963. Có mặt Địa chỉ: Tổ dân phố H, phường H, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Nơi ở: Tổ 12, phường Y, thành phố yên Bái, tỉnh Yên Bái.

- Bị đơn: Ông Phan Thanh X - Sinh năm 1963. Vắng mặt.

HKTT: Tổ dân phố H, phường H, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Hiện đang chấp hành án tại Đội 7, phân trại số 01, trại giam H, cục C10, Bộ Công an.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13-12-2019, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ánh T trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Phan Thanh X tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Sau khi về chung sống với nhau, cuộc sống của ông bà không hạnh phúc do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Ông X không quan tâm đến gia đình, thường xuyên vắng nhà. Mâu thuẫn đã được ông bà và gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không hàn gắn được tình cảm. Năm 2015, bà T đã về sinh sống ở nhà mẹ đẻ tại phường Y, thành phố Yên Bái. Vợ chồng ly thân từ thời gian đó đến nay. Năm 2018, ông X bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xử phạt 8 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, hiện đang chấp hành án tại trại giam Hồng Ca. Trong thời gian ông X chấp hành án, bà T vẫn thường xuyên thăm hỏi nhưng bà xác định việc thăm hỏi là vì con cái và nghĩa vụ vợ chồng. Bà T xác định tình cảm vợ chồng giữa bà và ông X đã hết, đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Phan Thanh X.

Về nuôi con chung: Bà và ông X có một con chung là Phan Thanh T, sinh ngày 17/03/1992, hiện anh T đã trưởng thành, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 18-02-2020, bị đơn ông Phan Thanh X trình bày:

Về hôn nhân: Ông X xác nhận ông và bà T về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990 nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Sau đó, cuộc sống chung của ông bà có nhiều mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm sống. Ông bà đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Khoảng năm 2016, bà T về sinh sống tại nhà mẹ đẻ bà T, ông bà đã sống ly thân từ thời gian đó đến nay. Năm 2018 ông bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện ông đang chấp hành án. Ông xác định tình cảm vợ chồng với bà T đã hết và đồng ý ly hôn với bà T.

Về nuôi con chung: Ông X xác nhận ông bà có một con chung như bà T đã trình bày. Hiện con chung đã trưởng thành, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Ông X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông X có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự từ khi thụ lý và trong quá trình giải quyết vụ án đến khi nghị án đã đúng theo quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng; giải quyết các vấn đề về án phí, kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà bị đơn là ông Phan Thanh X có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ dân phố H, phường H, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, theo quy định tại khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái. Ông Phan Thanh X là bị đơn có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Phan Thanh X được xác lập năm 1990, hai bên có đầy đủ điều kiện để đăng ký kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là vi phạm quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

Quá trình chung sống, ông bà xảy ra mâu thuẫn nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Do quan hệ hôn nhân của bà T và ông X xác lập trước thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì áp dụng Luật hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết vụ án này. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, không công nhận bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Phan Thanh X là vợ chồng.

[3] Về nuôi con chung: Bà T và ông X xác nhận có một con chung là Phan Thanh T, sinh ngày 17-3-1992. Con chung đã trưởng thành, ông bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về chia tài sản: Bà T, ông X đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ánh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 -12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Phan Thanh X là vợ chồng.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ánh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0005226 ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Bà T đã nộp đủ án phí.

Ông X không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Án xử sơ thẩm công khai, Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 17/03/2020 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về