Bản án 13/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 13/2019/HSST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Long Thành tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2019/HSST, ngày 17 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Phan Văn Q, sinh năm 1997 tại Quảng Trị; Hộ khẩu thường trú: Thôn Tây Tân A, xã H, huyện L, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn Đ và bà Mai Thị G; vợ: Nguyễn Thị Mỹ Tr; bị cáo là con lớn ba trong gia đình có 04 anh em; tiền án: Ngày 20/12/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/8/2017; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 30/11/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.

Người bị hại: Chị Huỳnh Thị D, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Ấp 4, xã L, huyện LT, tỉnh Đ.

(Bị cáo Q có mặt tại phiên tòa, người bị hại chị D vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn Q là người đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Lúc 08 giờ ngày 30/11/2018, một người tên T (không rõ lai lịch địa chỉ) đến phòng trọ của Q tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh rủ Q đi trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài, Q đồng ý. T đưa cho Q 01 đoản sắt và 01 chìa khóa xe mô tô rồi điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở Q đi từ thành phố Hồ Chí Minh đến khu vực huyện Long Thành tìm tài sản trộm cắp. Khi đến khu nhà trọ của ông C thuộc ấp 4, xã L, huyện LT, T phát hiện xe mô tô biển số 77C1-570.28 của chị Huỳnh Thị D đang dựng trước cửa phòng trọ, chìa khóa xe còn cắm trên ổ khóa, không người trông coi nên T dừng xe đứng ngoài cảnh giới để Q đi bộ vào nổ máy xe chạy thoát về hướng quốc lộ 51 khi Q điều khiển xe đi đến phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa thì bị Tổ phòng chống tội phạm Biên Hòa bắt giữ giao cho Công an phường An Bình, thành phố Biên Hòa lập hồ sơ ban đầu, chuyển cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành thụ lý. Còn T chạy thoát.

Tại bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 113 ngày 04 tháng 12 năm 2018 kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu xanh đen bạc biển số 77C1-570.28, số máy JA39B0461365, số khung 390HY486227 (đã qua sử dụng) trị giá 13.500.000 đồng.

Trước cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, bị cáo Phan Văn Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như trên phù hợp với lời khai người bị hại và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập tại hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSLT, ngày 10 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo Phan Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Q: 12 – 14 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xét. Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô Wave màu xanh đen bạc biển số 77C1-570.28 đã thu hồi trả lại cho người bị hại.

- 01 điện thoại di động màu đen của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho bị cáo.

- 01 chìa khóa bị cáo mang theo để phạm tội đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành chờ xử lý.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về chứng xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:

Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn Q đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại cùng các tài liệu đã thu thập được tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có cơ sở kết luận: Phan Văn Q là người đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 30/11/2018, tại khu vực nhà trọ của ông C, ở ấp 4, xã Long An, huyện Long Thành, bị cáo Phan Văn Q và một người tên T (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Huỳnh Thị D 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu xanh đen bạc biển số 77C1-570.28 trị giá 13.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phan Văn Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo Phan Văn Q với tội danh “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mặt khác gây ảnh hưởng xấu về an ninh và trật tự trong xã hội. Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi và hậu quả do hành vi của mình gây ra nhưng do tham lam, lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: Ngày 20/12/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 24/8/2017, chưa được xóa án tích mà phạm tội mới. Nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của pháp luật giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại và người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy đối với 01 chìa khóa xe moto bị cáo mang theo để dùng vào việc phạm tội.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

[8] Đối với người tên T có hành vi đồng phạm với Q hiện đã chạy thoát, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Q: 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 30/11/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên: Tịch thu tiêu hủy đối với 01 chìa khóa xe moto bị cáo mang theo để dùng vào việc phạm tội.

(Hiện vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành quản lý theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/01/2019).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Phan Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phan Văn Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người bị hại chị Huỳnh Thị D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về