Bản án 13/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/ HSST ngày 16/01/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Quang Th, sinh năm 1996; Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang.

Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trình độ văn hoá: 3/12; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Trương Văn M, (đã chết)

Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1975, hiện ở và làm ruộng tại Phường D, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương ( Có mặt).

* Bị hại:

1/ Anh Hoàng Văn Tr - Sinh năm 1981 (Vắng mặt)

Trú quán: Nam Đ – Nam D – LN – Bắc Giang.

2/ Anh Tạ Đình Kh, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Trú quán: Đồng Q – Tân M – LN – Bắc Giang

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Nguyễn Đức T - Sinh năm 1993 (Vắng mặt)

Trú quán: Làng C – TT C – LN – Bắc Giang.

2/ Anh Nguyễn Bá Đ - Sinh năm 2000 (Vắng mặt)

Trú quán: Làng C – TT C – LN – Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền chi tiêu cá nhân Trương Quang Th, sinh năm 1996 trú tại Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang đã nảy sinh ý định trộm cắp xe máy đem bán để lấy tiền chi tiêu cá nhân. Để thực hiện ý định trên khoảng 07 giờ sáng ngày 19/8/2018 Trương Quang Th một mình cầm theo 01 ( một) “vam phá khóa” có đặc điểm bằng kim loại, hình chữ (T) một đầu được mài dẹt đi bộ từ nhà theo đường liên xã đến địa phận xã Tân M, huyện LN, tỉnh Bắc Giang. Trên đường đi, Th quan sát thấy trước hiên nhà ông Vũ Công Tuệ, sinh năm 1966, thuộc thôn Hoa Quảng, xã Tân M, huyện LN có dựng một chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển số 98B2-051.94 của anh Tạ Đình Kh, sinh năm 1984, trú tại: Đồng Q, xã Tân M, huyện LN (anh Kh đến chơi nhà ông Tuệ và dựng xe ở hiên trước dưới hiên nhà). Th quan sát xung quanh thấy không có người trông giữ xe, Th đã dùng “vam chữ T” cắm vào ổ khóa Đ của xe mô tô 98B2-051.94 mở khóa và nổ xe, sau đó Th ngồi lên xe với ý định điều khiển xe rời khỏi hiện trường. Cùng lúc đó Th bị quần chúng nhân dân ở gần đó phát hiện hành vi của Th nên đã tri hô, Th để xe mô tô lại và bỏ chạy nhưng đã bị quần chúng nhân dân bắt được và bàn giao cho Công an xã Tân M để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó Th được bàn giao về Công an huyện để xử lý theo quy định. Do nghi ngờ Trương Quang Th là người bị bệnh tâm thần nên Cơ quan điều tra đã quyết định trả tự do cùng ngày đối với Th.

Quá trình điều tra vụ án tại cơ quan điều tra,Trương Quang Th còn thành khẩn khai nhận trước đó Th đã thực hiện trộm cắp 01 (một) xe máy khác cụ thể:

Khoảng 06 giờ ngày 10/8/2018, Trương Quang Th, sinh năm 1996 trú tại: Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang, một mình đi bộ từ nhà theo đường liên xã về hướng xã Tân M, huyện LN, khi đi Th mang theo một bộ “vam phá khóa” có đặc điểm như đã nêu ở trên mục đích để trộm cắp xe mô tô của người khác để đem bán, khi Th đang đi bộ trên đường thuộc địa phận thôn H, xã Tân M, huyện LN thì phát hiện trên lề đường phía trước cửa nhà anh Nghiêm Ngọc S, sinh năm 1973, ở thôn Hoa Quảng, xã Tân M, huyện LN có dựng một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, biển số 98E1-350.85, của anh Hoàng Văn Tr, sinh năm 1981, trú tại thôn: Nam Đ, xã Nam D, huyện LN (Anh Tr là thợ xây dựng, đang xây nhà cho gia đình anh Vũ Công Cường ở cạnh nhà anh Nghiêm Ngọc S), xe không có người trông giữ. Lợi dụng sơ hở không có người trông giữ, Th tiến lại gần dùng “vam chữ T” mang theo tra vào ổ khóa Đ của xe mô tô trên xoay, thấy đèn báo điện sáng, Th ngồi lên xe đề xe nổ và điều khiển đi về hướng thị trấn C và mang về nhà. Sau khi mang xe về nhà, Th đã nhờ Nguyễn Đức T, sinh năm 1993, trú tại: Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang bán giúp chiếc xe đã trộm cắp. Khi T được Th nhờ bán xe thì T không biết chiếc xe mô tô là do Th trộm cắp được. Khi được Th nhờ bán xe, T đã gọi Đ cho Nguyễn Bá Đ, sinh năm 2000, trú tại: Làng C, thị trấn C, huyện LN để hỏi xem có mua xe không. Do đang có nhu cầu mua xe để sử dụng, sau khi xem xe mặc dù biết xe không có giấy tờ, không có biển số nhưng Đ vẫn đồng ý mua chiếc xe mô tô do T giới thiệu bán hộ với số tiền 5.000.000đ (Năm Tr đồng). Đ không biết chiếc xe mô tô đã mua là của Th trộm cắp được và nhờ T bán giúp. Số tiền mua xe Đ đưa trực tiếp cho T, sau đó T đưa lại cho Th và Th tự sử dụng hết vào mục đích cá nhân, không chia cho T đồng nào. Ngày 19/8/2018, sau khi biết chiếc xe mô tô đã mua là tài sản do Th trộm cắp, Đ đã tự nguyện giao nộp lại chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn.

Ngày 22/8/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn đã ra yêu cầu Hội đồng định giá tài sản huyện Lục Ngạn định giá tài sản số 137; 135 đối với hai chiếc xe mô tô của anh Hoàng Văn Tr và của anh Tạ Đình Kh do Trương Quang Th trộm cắp vào ngày 10 và ngày 19/8/2018. Cùng ngày 22/8/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Ngạn có kết luận định giá tài sản số 137 và số 135 /KL-HĐ, kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave anpha, màu sơn đỏ- đen- bạc, biển số đăng ký 98E1- 350.85 của anh Hoàng Văn Tr có giá trị 14.200.000đ ( Mười bốn triệu hai trăm nghìn đồng); 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave anpha &, màu sơn xanh - đen- bạc, biển số đăng ký 98B2- 051.94 của anh Tạ Đình Khải có giá trị 13.500.000đ ( Mười ba triệu năm trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 27.700.000 đồng (Hai mươi bẩy Tr bảy trăm nghìn đồng).

Do nghi ngờ Trương Quang Th bị bệnh tâm thần, ngày 30/10/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn đã quyết định trưng cầu Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc giám định đối với Th để giám định Th có bị mắc bệnh tâm thần hay không, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, Th có bị mắc bệnh tâm thần hay không, khả năng nhận thức điều khiển hành vi và hiện tại, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bị cáo Th như thế nào.

Ngày 03/12/2018 Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc kết luận giám định pháp y tâm thần số 83/2018/ PYTT. Tại mục III Kết luận:

1. Trương Quang Th, sinh năm 1996 ở khu LC, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang không bị bệnh tâm thần.

2. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản ngày 10/8/2018 và ngày 19/8/2018 Trương Quang Th không bị bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và khả năng thực hiện hành vi.

3. Hiện tại Trương Quang Th không bị bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo Trương Quang Th đã khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận việc trộm cắp tài sản của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đối với chiếc Đ thoại bị thu giữ, bị cáo không sử dụng vào việc trộm cắp tài sản và có nguyện vọng xin lại, ngoài ra bị cáo không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra đã được công bố tại phiên tòa.

Tại bản Cáo trạng số 10/KSĐT ngày 14 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện LN đã truy tố bị cáo Trương Quang Th về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đ diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn giữ quyền công tố nhà nước tại phiên toà đã luận tội bị cáo, phân tích tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trương Quang Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Quang Th từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Miễn phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) “vam phá khóa” bằng kim loại (hình chữ T); Trả lại cho bị cáo 01 (một) Đ thoại di động nhãn NOKIA 1280, số IMEI: 356230/04/380131/8, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Quang Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có tranh luận gì với lời luận tội của Đ diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lục Ngạn, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tang vật chứng thu hồi được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận: “Ngày 19/8/2018 Trương Quang Th, sinh năm 1996 trú tại Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang đã có hành vi cầm theo vam phá khóa khóa bằng kim loại hình chữ “ T ” từ nhà đến thôn Hoa Quảng, xã M, huyện LN trộm cắp một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave anpha, màu sơn đỏ - đen - bạc, biển số 98E - 350.85 của anh Hoàng Văn Tr có giá trị 14.200.000đ thì bị phát hiện bắt quả tang. Quá trình điều tra vụ án Th còn khai nhận trước đó ngày 10/8/2018 Th cầm vam phá khóa ở trên đi đến thôn H, xã T, huyện LN trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave anpha &, màu sơn xanh - đen - bạc, biển số đăng ký 98B2- 051.94 của anh Tạ Đình Kh có giá trị 13.500.000đ. Tổng giá trị tài sản do Th trộm cắp có giá trị bị thiệt hại là 27.700.000 đồng (Hai mươi bẩy Tr bảy trăm nghìn đồng).”.

[2] Hành vi nêu trên của Trương Quang Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Lời luận tội của Đ diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện LN đã truy tố và lời luận tội của Đ diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên cần được Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy: Từ ngày 10/8/2018 đến ngày 19/8/2018 bị cáo đã thực hiện 02 lần trộm cắp tài sản đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xem xét theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù lần phạm tội này bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là người không am hiểu pháp luật, tuy nhiên bị cáo đã phạm tội nhiều lần, điều đó chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục, coi thường pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, theo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp. Đối với tội phạm này ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, ở một mình với ông bà, sống phụ thuộc gia đình, nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Đối với Nguyễn Đức Th, sinh năm 1993 ở Làng C, thị trấn C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang là người được Trương Quang Th nhờ môi giới bán hộ xe. Quá trình điều tra xác định Th không biết chiếc xe mô tô đó là xe do Th trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý đối với Th.

[7] Đối với Nguyễn Bá Đ, sinh năm 2000, trú tại: Làng C, thị trấn C, huyện LN là người đã mua xe mô tô của Thi bán. Quá trình điều tra xác định Đ không biết chiếc xe mô tô trên là xe do Th đem bán hộ là xe do trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý đối với Đại.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Hoàng Văn Tr và anh Tạ Đình Kh đã nhận lại được tài sản các anh không có yêu cầu đề nghị gì về việc bồi thường gì khác. Đối với số tiền mua xe 5.000.000đ của anh Nguyễn Bá Đa mua xe của anh Nguyễn Đức Thi, nay anh Đ không có yêu cầu, đề nghị gì về số tiền trên, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, biển số 98E1-350.85 và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, biển số 98B2-051.94. hai chiếc xe mô tô trên đã được trả lại cho bị hại là anh Hoàng Văn Tr và anh Tạ Đình Kh theo Quyết định xử lý đồ vật tài liệu số 140 ngày 20/9/2018 và Quyết định xử lý vật chứng số 03 ngày 09/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn là có căn cứ, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đi với 01 (một) “vam phá khóa” bằng kim loại (hình chữ T), là công cụ bị cáo sử dụng để phạm tội có giá trị sử dụng nhỏ, nên cần tịch thu tiêu huỷ; Đối với 01 (một) Đ thoại di động nhãn NOKIA 1280, số IMEI: 356230/04/380131/8 thu giữ của bị cáo Trương Quang Th khi bắt quả tang vào ngày 19/8/2018 là tài sản cá nhân của bị cáo không sử dụng để phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định cuả pháp luật, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định cuả pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Quang Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Quang Th 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Miễn phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) “vam phá khóa” bằng kim loại (hình chữ T); Trả lại cho bị cáo Trương Quang Th 01 (một) Đ thoại di động nhãn NOKIA 1280, số IMEI: 356230/04/380131/8, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Quang Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về