Bản án 13/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K, thành phố Hải  Phòng  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  sơ  thẩm  thụ  lý  số11/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Văn H, sinh ngày 28/4/1985 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: P1, phường Đ, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1962; có vợ là Trần Thị M, sinh năm 1988; có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Tại bản án số 12/2015/HSST ngày 12/5/2015 của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chưa được xóa án tích); tiền sự: Ngày 30/11/2017 bị Công an phường Đ, quận D ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 41/QĐ-XPHC về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 05/4/2018 UBND phường Đ, quận D ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 02/QĐ-UBND đối với Bùi Văn H do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2019; chuyển tạm giam từ ngày 11/01/2019; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị M, sinh năm 1988;

nơi cư trú: P1, phường Đ, quận D, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1945; nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 07/01/2019, Bùi Văn H đi xe buýt đến khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua 08 túi nhỏ ma túy đá đựng trong vỏ bao thuốc lá Gold Lion với giá 1.600.000 đồng của người phụ nữ không quen biết mang về để sử dụng. H cất giấu 08 túi nhỏ ma túy vừa mua vào túi áo khoác phía trước bên phải rồi đi xe buýt về nhà. Đến buổi trưa cùng ngày, H ra khu vực cánh đồng gần nhà lấy 01 túi ma túy và sử dụng hết, còn lại 07 túi ma túy Hướng vẫn để trong vỏ bao thuốc lá và cất giấu ở túi áo khoác đang mặc. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 đi đến thị trấn N, huyện K chơi và mang theo toàn bộ số ma túy trên. Khi đến khu vực thôn H, xã Đ, huyện K, Hướng thấy lực lượng Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra nên đã ném vỏ bao thuốc lá đựng 07 túi ma túy xuống mặt đường, ngay vị trí H đang đứng thì bị Công an huyện K bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 vỏ bao thuốc lá có in chữ Gold Lion kích thước 15x10x02 cm, bên trong có 07 túi nilon màu trắng, kích thước 02x02 cm đều chứa tinh thể màu trắng (niêm phong mẫu M1) và 01 xe mô tô Sirius biển kiểm soát 16M1-9407.

Theo kết luận giám định số 15/KLGĐ (Đ6) ngày 10/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu M1 là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 1,0270 gam.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSKT ngày 12/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận tội: Khoảng 09 giờ ngày 07/01/2019, H đi xe buýt rồi đi bộ vào khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua 08 túi nhỏ ma túy đá với giá 1.600.000 đồng của người phụ nữ không quen biết về để sử dụng. Đến buổi trưa cùng ngày, H ra khu vực cánh đồng gần nhà lấy ra 01 túi ma túy và sử dụng hết, còn 07 túi ma túy H vẫn để ở trong vỏ bao thuốc lá và cất vào túi áo khoác đang mặc. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 đến thị trấn N, huyện K chơi, khi đi đến thôn H, xã Đ thì bị Công an huyện K bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, chị Trần Thị M khai: Tối ngày

07/01/2019 bị cáo H (chồng chị) hỏi mượn xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 thuộc quyền sở hữu của chị để đi đến thị trấn N, huyện K chơi. Chị M không biết việc bị cáo đi mua ma túy và tàng trữ ma túy để sử dụng trái phép bị bắt giữ. Nay chị M xin nhận lại tài sản là xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 để đi làm.

Sau quá trình thẩm vấn, đánh giá tính chất của vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng như bản Cáo trạng và ý kiến bổ sung tại phiên tòa: xin rút một phần truy tố bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và bổ sung thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bùi Văn H mức án từ  24 tháng đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập kinh tế ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá có in chữ Gold Lion.

- Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 cho chị Trần Thị M là chủ sở hữu hợp pháp vì không có cơ sở xác định dùng vào việc phạm tội.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, bị cáo đều thành khẩn khai nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 07/01/2019, Bùi Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,0270 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Văn H đã thỏa mãn cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Đánh giá tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân; đồng thời là điều kiện, nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo đồng thời để phòng ngừa tội phạm.

 [4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích lại phạm tội, lần phạm tội này được xác định là tái phạm. Do vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã có 02 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly bị cáo một thời gian dài để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

 [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khi bị bắt giữ cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập kinh tế ổn định, không có tài sản riêng; tại phiên tòa Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có cơ sở được chấp nhận, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [7] Về xử lý vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá có in chữ Gold Lion; Cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 16M1-9407 thu giữ của bị cáo H thuộc quyền sở hữu của chị Trần Thị M, không có cơ sở xác định dùng vào việc phạm tội, nay chị M xin nhận lại để sử dụng; Cần trả lại cho chị M.

 [8] Trong vụ án này, Cơ quan điều tra chưa xác định được tên tuổi địa chỉ của người bán ma túy cho H nên Quyết định tách ra để điều tra xử lý sau là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bùi Văn H  30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 08/01/2019.

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá có in chữ Gold Lion (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho chị Trần Thị M xe mô tô Sirius màu đỏ, sọc trắng biển kiểm soát 16M1-9407 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về