TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 13/2019/HS-PT NGÀY 19/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2019/TLPT-HS ngày 10-01-2019 đối với các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ do có kháng cáo của các bị cáo S, Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện MT, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Bùi Văn S, sinh năm 1996, tại huyện MT tỉnh Sóc Trăng: Nơi cư trú: Ấp C, thị trấn H, huyện MT tỉnh Sóc Trăng, nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn P và bà Huỳnh Thị Ngọc L; Vợ, con: Không; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 20-6-2018 và chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).
2. Trần Tiến Đ, sinh năm 1995, tại huyện MT (nay là huyện C), tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp M, xã T huyện C, tỉnh Sóc Trăng, nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 12/12, dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn V và bà Nguyễn Thị Kim T; Vợ, con: Không; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 20-6-2018 và chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Đ: Bà Sơn Thị Pheng – Luật sư Văn phòng luật sư Việt Thắng, thuộc đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Những người dưới đây không liên quan đến kháng cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập gồm: Các bị cáo Đặng Văn L, Nguyễn Thị Mỹ H; Người làm chứng NLC1; NLC2; NLC3; NLC4.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20-6-2018, Phòng Cảnh sát điều tra về Ma túy Công an tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Công an huyện MT tiến hành xác minh và bắt quả tang Đặng Văn L đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Thái Văn Hoàng K tại nhà của Nguyễn Thị Mỹ H. Ngoài L, thì Cơ quan Công an còn bắt giữ Bùi Văn S và Trần Tiến Đ.
Đầu tháng 6-2018, L rủ Đ và S lại nhà bạn gái của L là Nguyễn Thị Mỹ H chơi. Tại đây L, S, Đ thường xuyên hùn tiền mua ma túy đá về sử dụng. L gợi ý với S và Đ kiếm tiền mua ma túy về vừa sử dụng vừa bán lại cho các con nghiện để kiếm lời để mua ma túy sử dụng, vừa có tiền chi phí ăn uống hàng ngày thì S và Đ đồng ý. S và Đ đi Sóc Trăng mua ma túy về giao lại cho L để L chia ra thành nhiều bịch nhỏ để vừa sử dụng vừa bán cho người khác.
Trong quá trình điều tra: Bị cáo Đặng Văn L đã khai nhận là bị cáo bán ma túy đá tổng cộng 17 lần, tại nhà của Mỹ H, cụ thể:
- Bán cho Thái Văn Hoàng K, tổng cộng 04 (bốn) lần: Thời gian cách trước ngày L bị bắt khoảng 10 ngày, L trực tiếp bán cho K một gói ma túy với giá 200.000 đồng; cách sau ngày mua lần 01 khoảng 04 ngày, L trực tiếp bán cho K một gói ma túy với giá 200.000 đồng; vào khoảng 10 giờ, ngày 20-6- 2018, L trực tiếp bán cho K một gói ma túy với giá 200.000 đồng vào khoảng gần 15 giờ, ngày 20-6-2018, L trực tiếp bán cho K một gói ma túy với giá200.000 đồng, đây là mua lần thứ hai trong một ngày, thì bị Công an bắt quả tang.
- Trực tiếp bán cho Nguyễn Hữu L1, tổng cộng 03 (ba) lần, tại nhà của H, mỗi lần mua 01 gói, giá 200.000 đồng/gói: Lần 01, là cách trước ngày L bị bắt khoảng 10 ngày, lần 02 là cách sau ngày mua ở lần 01 khoảng 01 tuần lễ; lần 03 là thời gian cách sau ngày mua ở lần 02 khoảng 01 – 02 ngày.
- Bán cho Phùng Hùng C 01 lần: Là vào thời gian cách trước ngày L bị bắt khoảng 06 ngày, C liên lạc trước với H rồi đến nhà gặp H đưa 300.000 đồng, mua một gói ma túy đá, H nói cho L biết. L trực tiếp lấy ma túy giao bán cho C, sau đó H đưa tiền lại cho L;
- Bán cho NLC4 02 lần: Lần 01 là vào thời gian cách trước ngày L bị bắt khoảng 10 ngày, NLC4 có đi cùng 04 thanh niên ở Tp. Hồ Chí Minh về, đến nhà Nguyễn Thị Mỹ H gặp Đặng Văn L, Bùi Văn S, Trần Tiến Đ mua ba gói ma túy đá với giá tiền là 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng). L trực tiếp lấy ma túy giao bán cho NLC4 rồi L có bớt tiền cho NLC4 và chỉ lấy 500.000 đồng, sau đó NLC4 cùng nhóm bạn sử dụng luôn tại nhà H; Lần 02: Thời gian cách sau ngày mua lần 01 khoảng 02 ngày, L bán cho NLC4 01 gói ma túy đá với giá tiền là 200.000 đồng. Đ nói là mua dùm cho H1 và xin nợ lại 100.000 đồng.
- Bán cho NLC3 01 lần: Vào thời gian cách trước ngày L bị bắt khoảng 01 tuần, L bán cho NLC3 01 gói ma túy đá với giá tiền là 100.000 đồng. NLC3 đem về cho NLC2 và H1 sử dụng.
- Bán cho NLC2 tổng cộng 06 lần: Cách trước ngày L bị bắt khoảng hơn 10 ngày, L bán 01 gói ma túy đá cho NLC2 tại nhà của H; các lần mua tiếp theo của NLC2 đều cách lần trước từ 01 đến 02 ngày. Trong 06 lần L bán ma túy cho NLC2, thì có 03 lần NLC2 đến nhà H gặp L mua và giao nhận ma túy đá tại đây, còn 03 lần thì L mang ma túy đem xuống nhà NLC2 ở đối diện nhà H giao, mỗi lần NLC2 mua đều với giá 200.000 đồng
- Ngoài trực tiếp bán ma túy cho NLC2 thì L còn chỉ cho S nơi cất giấu ma túy để S lấy bán cho Văn Sĩ K một lần và S đưa cho H, để H giao bán ma túy đá cho NLC2 01 lần với giá tiền là 200.000 đồng; L chỉ chỗ cất giấu đề Đ bán cho NLC2 01 lần. 01 lần L kêu Đ đem ma túy cho NLC2 (NLC2 trả tiền cho L).
Bị cáo Bùi Văn S khai: Nguồn ma túy có được để cả nhóm sử dụng và bán lại cho người khác là do S hoặc Đ đi mua về, trong đó thì S đi mua cùng Đ 02 lần, S đi một mình 03 lần. L là người cất giữ, chia nhỏ ra nhiều gói và là người trực tiếp bán cho người mua. S đã khai nhận là tham gia bán ma túy đá 02 lần:
- Lần 01: Vào thời gian cách trước ngày S bị bắt khoảng 01 tuần (hôm đó L và Đ không có ở nhà H) thì có người thanh niên tên K đến nhà H gặp S và H hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá để sử dụng, S điện thoại hỏi L để biết nơi cất giấu ma túy và bán cho K.
- Lần 02: Sau khi bán cho K xong thì khoảng một giờ sau NLC2 đến nhà H hỏi mua ma túy, nên H tiếp tục kêu S điện cho L, sau đó S cũng lấy 01 gói ma túy đưa cho H để H đem đến nhà NLC2 để bán với giá tiên là 200.000 đồng.
Bị cáo Trần Tiến Đ khai: Vào khoảng ngày 09-6-2018, L có bàn việc bán ma túy nhưng Đ không đồng ý, tuy nhiên Đ để ý thì biết là L đã tiến hành việc bán lại ma túy cho người khác, đến trước ngày bị bắt khoảng 03 - 04 ngày thì các bị cáo L, S và Đ cùng thống nhất việc mua bán ma túy. Sau đó, Đ mang giây tờ xe gắn máy của S đem cầm được 400.000 đồng đi qua L - tỉnh Hậu Giang mua ma túy; bị cáo Đ còn lấy tiền cầm xe mô tô giùm S, cầm điện thoại của bị cáo và tiền của bị cáo chơi game bắn cá, rồi mua ma túy giao cho L để cả nhóm sử dụng và bán lại.
Bản thân Đ đã đi mua ma túy đem về giao cho L 05 lần, trong các ngày 09-6-2018, 15-6-2018, 16-6-2018, 17-6-2018 và 19-6-2018.
Đ còn tham gia bán ma túy cùng L, cụ thể là trong một lần NLC2 đến nhà H gặp L mua ma túy đá, L kêu Đ lấy ma túy giao NLC2, giá 200.000 đồng. Đ có mặt và biết lần L bán ma túy cho NLC4 03 gói giá 500.000 đồng, biết về những lần L và H bán ma túy cho NLC2: L và NLC2 còn khai nhận: Trần Tiến Đ có trực tiếp giao bán cho NLC2 một gói ma túy giá 200.000 đồng, nhưng bị cáo Đ khai không nhớ do thường xuyên say ma túy.
Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ H khai: H với Đặng Văn L có quan hệ tình cảm nên vào cuối tháng 5-2018 L thường xuyên đến nhà H ở, cách khoảng 01 tuần sau L dẫn thêm bạn của L đến ở chung tại nhà H đó là bị cáo S và bị cáo Đ. Khoảng 04 - 05 ngày sau thì H biết được việc L, S, Đ bắt đầu bán ma túy, do có tình cảm với L đồng thời việc L bán ma túy cũng có tiền đưa cho H để chi tiêu sinh hoạt ăn uống trong gia đình H nên H đã phụ giúp L trong việc bán ma túy, cụ thể:
- Lần 01: Vào thời gian khoảng 01 tuần lễ trước khi L bị bắt thì NLC2 đến nhà gặp H hỏi mua ma túy đá, hôm đó L và Đ không có ở nhà nên H có kêu S điện cho L để hỏi nơi cất giấu ma túy để bán cho NLC2 01 gói ma túy đem đến nhà NLC2 bán với giá 200.000 đồng. H giao tiền lại cho L, nhưng L đưa lại cho H để mua thức ăn cho cả nhóm.
- Lần 02: Khoảng 05 - 06 ngày trước khi L bị bắt thì Phùng Hùng C điện thoại cho H hỏi mua ma túy đá. Sau đó, L trực tiếp bán 01 gói ma túy đá giá 300.000 đồng, giao tiền cho H thì H đưa tiền lại cho L.
Tại bản kết luận giám định số 30/GĐMT-PC54 ngày 25/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Các mẫu tinh thể niêm phong gửi đi giám định là ma túy, trọng lượng 0,391g, là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82 ngày 19-7-2013 của Chính phủ
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HS-ST ngày 29-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện MT tỉnh Sóc Trăng quyết định:
1- Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn L, Trần Tiến Đ, Bùi Văn S, Nguyễn Thị Mỹ H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2- Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn L 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20 tháng 6 năm 2018.
3- Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20 tháng 6 năm 2018.
4- Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20 tháng 6 năm 2018.
5- Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của các bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
Đến ngày 03-12-2018, các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo S, Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo S và Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Người bào chữa cho bị cáo Đ trình bày: Thống nhất tội danh và khung hình phạt. Về hình phạt cấp sơ thẩm xử bị cáo là quá nặng vì các bị cáo không bàn bạc, bị cáo Đ bị lôi kéo, phạm tội giản đơn, các lần mua là để sử dụng, các lần khác do L bán, ngoài ra so sánh với bị cáo L thì Tòa án cấp sơ thẩm xử 08 năm 06 tháng tù, trong khi vai trò của bị cáo Đ nhẹ hơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Văn S và Trần Tiến Đ được Nhà tạm giữ Công an a huyện Mỹ Tú xác nhận vào ngày 03-12-2018 là đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng cáo theo quy định của các điều331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ về xin giảm nhẹ hình phạt.
[2] Xét về hành vi phạm tội của các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ như sau: Ngày 20-6-2018, khi Đặng Văn L đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Thái Văn Hoàng Khiêm tại nhà của Nguyễn Thị Mỹ H thì bị Công an bắt quả tang. Ngoài L còn có cả Bùi Văn S và Trần Tiến Đ. Qua quá trình điều tra bị cáo S và Đ khai nhận là S tham gia bán ma túy đá 02 lần cho các con nghiện và Đ tham gia bán ma túy cùng L 01 lần. Lời thừa nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, phù hợp với lời khai người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm kết luận các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo S: Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo S là bị cáo đã tự khai nhận ra các hành vi phạm tội trước đó, thật thà khai báo; bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo S như trên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo S không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác mà Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo S và giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo S
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đ: Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo đã tự khai nhận ra các hành vi phạm tội trước đó, thật thà khai báo; bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự; có ông ngoại có công với cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác mà Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và không chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đ và giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Đ.
Xét đề nghị của bị cáo Đ và người bào chữa cho bị cáo Đ thì thấy, hành vi của bị cáo Đ thể hiện đi cầm xe mua ma túy, đi mua 05 lần và cùng với L bán ma túy cho NLC2 và NLC4, nên hành vi của bị cáo Đ cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm vì đơn kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận.
[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của các bị cáo Bùi Văn S, Trần Tiến Đ.
2. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20-6- 2018.
3. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20-6-2018.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)
5. Các phần khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2019/HS-PT ngày 19/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 13/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về