Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 18/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 555/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thu T (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc H (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Nguyễn Thu T trình bày:

Hôn nhân: Bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn TB vào ngày 01/02/2016. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, vợ chồng đã ly thân từ tháng 10/2018 cho đến nay nên bà T yêu cầu ly hôn với ông H.

Con chung tên Nguyễn Trọng T, sinh ngày 15/10/2017 (giới tính nam) hiện do bà T đang nuôi dạy. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên bà T không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Thực hiện đúng các quy định của tố tụng dân sự; về nội dung vụ án thì các yêu cầu của bà T là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thu T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là ông Nguyễn Quốc H. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; Ông H có nơi cư trú tại khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của bà T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và có tống đạt hợp lệ cho ông H nhưng ông H không có văn bản ý kiến đối với yêu cầu của bà T và vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử và có triệu tập xét xử hợp lệ nhưng ông H vắng mặt không có lí do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 01/02/2016. Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, bà T cho rằng thời gian chung sống giữa ông bà xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay nên bà T yêu cầu ly hôn với ông H. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống do bất đồng quan điểm, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa bà T và ông H không đạt được, ông bà đã được gia đình hòa giải đoàn tụ nhưng không thành, bà T và ông H đã ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để bà T và ông H có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do ông H vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà T và ông H được ly hôn là phù hợp.

[4] Về con chung: Bà T và ông H có một người con chung là cháu Nguyễn Trọng T, sinh ngày 15/10/2017 (giới tính nam), hiện do bà T đang nuôi dạy, tại tòa bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu T chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của người mẹ, từ khi sinh ra cho đến nay con chung do bà T nuôi dạy nên cần để cho bà T tiếp tục nuôi dạy con chung, bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, ông H không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con theo quy định của pháp luật là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[5] Về tài sản chung: Bà T xác định bà và ông H không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà T xác định không có nợ chung, vợ chồng không có nợ người ngoài và người ngoài cũng không nợ vợ chồng nên không yêu cầu giải quyết. Tại đơn xác nhận ngày 22/10/2018 của Ủy ban nhân dân thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau và tại biên bản làm việc với người làm chứng ngày 23/01/2019 xác nhận vợ chồng bà T và ông H không có ai yêu cầu về nợ đối với vợ chồng bà T và ông H tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 56, Điều 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xét xử vắng mặt ông Nguyễn Quốc H.

2. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thu T về việc ly hôn với ông Nguyễn Quốc H.

2.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thu T và ông Nguyễn Quốc H được ly hôn.

2.2. Về con chung: Bà T được tiếp tục nuôi dạy con chung là Nguyễn Trọng T, sinh ngày 15/10/2017 (giới tính nam), ông H không cấp dưỡng nuôi con.

Ông H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

2.3. Tài sản chung, nợ chung: Không có.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 10 tháng 12 năm 2018 bà T có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0005820 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

4.Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 18/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về