TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 11 tháng 10 năm 2019 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 71/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Thu H, sinh năm 1993. Địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1987. Địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn chị Hồ Thị Thu H trình bày:
Chị H và anh Nguyễn Ngọc T tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 11/9/2012 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Trong quá trình chung sống do bất đồng quan điểm, tính cách, lối sống nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, anh T không có trách nhiệm với vợ con. Cả hai đã không sống chung với nhau từ lâu. Cho đến nay cuộc sống chung của chị H và anh T không thể đoàn tụ được, nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.
Chị H và anh T có hai con chung là Nguyễn Ngọc Khôi N, sinh ngày 09/02/2013 và Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 07/9/2016. Chị H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc K, anh T trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc Khôi N cho đến khi các con thành niên và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Theo các lời khai bị đơn anh Nguyễn Ngọc T trình bày:
Anh T và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Mặc dù hiện nay vợ chồng có mâu thuẫn, nhưng anh T nhận thấy mâu thuẫn chưa nghiêm trọng, chưa đến mức phải ly hôn, nên không đồng ý ly hôn với chị H.
Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh T yêu cầu được quyền nuôi hai con chung là Nguyễn Ngọc Khôi N, sinh ngày 09/02/2013 và Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 07/9/2016 cho đến khi các con thành niên, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử (HĐXX) tại phiên tòa đảm bảo đúng quy định về trình tự thủ tục tố tụng dân sự. Về nội dung, yêu cầu của nguyên đơn là chính đáng, nên cần chấp nhận.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thảo luận, HĐXX nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn có nơi cư trú tại: Tổ dân phố 11, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 11/9/2012 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk là phù hợp với quy định của pháp luật. Do mâu thuẫn, nên vợ chồng đã không chung sống với nhau một thời gian dài. Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến ly hôn là do hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên HĐXX áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết cho chị H được ly hôn với anh T.
[3] Về con chung: Chị H, anh T có hai con chung là Nguyễn Ngọc Khôi N, sinh ngày 09/02/2013 và Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 07/9/2016 hiện tại đang sống cùng chị H. Chị H và anh T đều có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Vì vậy, để đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt cho con, HĐXX cần căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình để giao con cho chị H trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc K, anh T trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc Khôi N cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi).
[4] Về tài sản chung: Nguyên đơn chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên HĐXX không xem xét. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện riêng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nếu đương sự có yêu cầu.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu tiền án phí Dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 56, khoản 2 Điều 81, 82, 83, 84 luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Hồ Thị Thu H được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T.
2. Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 07/9/2016, anh T trực tiếp nuôi Nguyễn Ngọc Khôi N, sinh ngày 09/02/2013 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi).
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Hồ Thị Thu H phải chịu 300.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình. Được khấu trừ vào 300.000đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0006243 ngày 06/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án Dân sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 13/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về