Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09/4 /2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con sau ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐSXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1992

2. Bị đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm 1988

Đều cư trú tại: Thôn H, xã Đ, huyện X, tỉnh Thái Bình.

3. Người làm chứng: Bà Trần Thị Ph, sinh năm 1967

Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện X, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày: Chị và anh Trần Văn L tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Kiến Xương vào ngày 13/12/2013. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L ham chơi cờ bạc, không chịu khó lao động, chị và gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh L không thay đổi, vì vậy cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, bất hòa, anh chị đã sống ly thân khoảng 6 tháng nay. Chị xác định không còn tình cảm, chung sống với anh L không có hạnh phúc, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con chung: Chị và anh L có một con chung tên Trần Ngọc D, sinh ngày 24/3/2017, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung sau ly hôn, không yêu cầu anh L góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị là giáo viên trường mầm non Đ, huyện Kiến Xương thu nhập 3.900.000 đồng/ tháng.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, anh Trần Văn L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không gửi ý kiến thể hiện quan điểm đối với các yêu cầu khởi kiện của chị H, Tòa án cũng không ghi được ý kiến của anh.

Bà Trần Thị Ph là mẹ đẻ của anh L trình bày: Sau khi kết hôn anh L- chị H chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. anh L đi làm khoảng 6 tháng nay thỉnh thoảng có về nhà, thường xuyên liên lạc với bà, bà nhận thay cho anh L các văn bản do Tòa án gửi và cam kết sẽ thông báo ngay nội dung cho anh L. Bà mong muốn anh chị trở về đoàn tụ, nếu chị H cương quyết xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, giao con chung Trần Ngọc D cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Kết quả xác minh tại UBND xã Đ, huyện Kiến Xương thể hiện: Sau khi kết hôn anh L- chị H chung sống không được hạnh phúc, nguyên nhân do anh L ham chơi, không chịu khó lao động, đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị H theo quy định của pháp luật. Nếu xử ly hôn giao con chung Trần Ngọc D cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh chị không có tài sản chung, không vay nợ các quỹ tập thể, tín dụng tại địa phương.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70,71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Trần Văn L; về con chung giao con chung Trần Ngọc D cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L góp tiền cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung không giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Lê Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Trần Văn L, có nơi cư trú tại xã Bình Định, huyện Kiến Xương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn anh Trần Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh L tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Kiến Xương là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L ham chơi, thiếu trách nhiệm với gia đình. Mặc dù biết được việc chị H xin ly hôn nhưng anh L bỏ mặc không đến Tòa án cũng không gửi ý kiến trình bày về yêu cầu của chị H. Điều này chứng tỏ giữa anh chị không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị được ly hôn anh Trần Văn L là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về quan hệ con chung: Chị H và anh L có một con chung tên Trần Ngọc D, sinh ngày 24/3/2017. anh L đi làm xa, cháu D lại còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ hơn, do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H, ý kiến của đại diện VKS giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh L góp tiền cấp dưỡng nuôi con. anh L có quyền thăm nom con chung.

[6] Về quan hệ tài sản chung: Chị H khai không có, Tòa án không ghi được lời khai của anh L, vì vậy về quan hệ tài sản chung không giải quyết trong vụ án này.

[7] Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩmtheo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 56, 81,82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Trần Văn L.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Trần Ngọc D, sinh ngày 24/3/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L góp tiền cấp dưỡng nuôi con. anh L có quyền thăm nom con chung.

3. Về quan hệ tài sản chung: không giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001241 ngày 14 tháng 02 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, Chị H đã nộp đủ án phí. 

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 09/4/2019, anh Trần Văn L vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về