TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ NGÀY 25/09/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số198/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐ-ST ngày 13 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1984 Hộ khẩu thường trú + cư trú: Số 1, ngõ 6, An Dương Vương, tổ 50, cụm 8, phường Phú Thượng, quận T, Thành phố H.
(Có mặt tại phiên tòa) - Bị đơn: Anh Hoàng Thanh H, sinh năm 1980 Hộ khẩu thường trú: Số 1, ngõ 6, An Dương Vương, tổ 50, cụm 8, phường Phú Thượng, quận T, Thành phố H.
(Hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 – Công an Thành phố Hà Nội). (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện ngày 15/5/2019 và các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:
Chị và anh Hoàng Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Phú Thượng, quận T, Thành phố H ngày 29/03/2006 . Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống hạnh phúc cho đến khi sinh con thứ ba thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không chịu tu trí làm ăn, thường xuyên chơi bời, không quan tâm đến gia đình, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, anh H còn nợ nần bên ngoài rất nhiều. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng không có kết quả, bản thân anh H thường xuyên vi phạm pháp luật. Năm 2017, anh H còn đánh nhau, bị bắt tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Ngày 05.9.2019, anh H bị Tòa án nhân dân quận T xử 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Hiện đang chờ đi chấp hành hình phạt tù tại trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.
Do thời gian vợ chồng ly thân lâu, anh H đang đi chấp hành hình phạt tù, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống.
-Về con chung: Chị xác định có 03 con chung là:
1. Hoàng Minh V, sinh ngày 21/01/2008
2. Hoàng Bảo T, sinh ngày 21/05/2010
3. Hoàng Anh T, sinh ngày 21/10/2016.
Hiện các con chung đang ở cùng chị, khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cả 03 con chung cho chị trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh H đang bị tạm giam chờ đi chấp hành hình phạt tù, không có điều kiện để nuôi con.
- Về tài sản, nhà đất: Chị xác định không có tài sản, nhà đất chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. .
- Về công nợ: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết
- Bị đơn là anh Hoàng Thanh H trình bày:
- Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị Hoàng Thị Thúy trình bày là đúng, anh không có ý kiến bổ sung gì thêm. Nay chị Thúy xin ly hôn anh đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Anh xác định có 03 con chung như chị Thúy trình bày. Anh nhất trí đề nghị Tòa án giao cả 03 con chung cho chị Thúy nuôi dưỡng, anh không có tranh chấp gì.
- Về tài sản, nhà đất, công nợ: Không có.
Anh H tự khai hiện nay anh đang bị tạm giam về tội cố ý gây thương tích vì vậy không tham gia được, xin phép được vắng mặt trong quá trình tòa án giải quyết.
Tại phiên toà hôm nay nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến như trên, không có yêu cầu gì khác. Bị đơn đề nghị xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như lời khai đã trình bày.
- Đại diện VKS tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và nội dung giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Toà án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền, thụ lý và trình tự đưa vụ án ra xét xử.Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Anh H đang chờ chấp hành hình phạt tù tại trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội, không thể trực tiếp tham gia phiên tòa. Căn cứ vào Khoản 1, Điều 227; Khoản 1, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh H là đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Anh chị kết hôn là tự nguyện. Mâu thuẫn phát sinh là do bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không hòa hợp, anh H hiện đang chờ đi chấp hành hình phạt tù, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được, vợ chồng đã ly thân từ năm 2017, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn ly hôn của chị Thúy đối với anh Hải.
- Về con chung: Anh chị có 03 con chung là:
1. Hoàng Minh V, sinh ngày 21/01/2008
2. Hoàng Bảo T, sinh ngày 21/05/2010
3. Hoàng Anh T, sinh ngày 21/10/2016.
Hiện các con chung đang ở cùng chị, khi ly hôn chị T đề nghị Tòa án giao cả 03 con chung cho chị trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh H pH cấp dưỡng nuôi con chung vì anh H đang bị tạm giam chờ đi chấp hành hình phạt tù, không có điều kiện để nuôi con. Anh H đồng ý giao con cho chị Thúy nuôi dưỡng nên đề nghị HĐXX chấp nhận.
- Về tài sản, nhà đất, công nợ: không có nên không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1.Về tố tụng: Bị đơn là anh Hoàng Thanh H có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 điều 227; Khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh H là đúng quy định của pháp luật.
2.Về nội dung: Chị Hoàng Thị Thúy và anh Hoàng Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có qua tìm hiểu cưới hỏi và có đăng ký hôn tại UBND phường Phú Thượng, quận T, Thành phố Hngày 29/3/2006, đây là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn,vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh mâu thuẫn ngay sau khi cưới. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách sống, anh H chơi bời, không quan tâm đến gia đình, thường xuyên vi phạm pháp luật. Mặc dù gia đình đã khuyên ngăn nhưng anh H vẫn không thay đổi, chị T, anh H đã sống ly thân. Vì vậy, vợ chồng không có tiếng nói chung tình cảm vợ chồng không còn mặn nồng. Theo quy luật và sự phát triển bình thường thì những gia đình có cuộc sống hạnh phúc đầm ấm là vợ chồng quan tâm, thương yêu quý trọng, chăm sóc giúp đỡ cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng tiến bộ hạnh phúc và bền vững.
Bản án số 118/ HSST ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân quận T đã xử phạt anh H 30 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”, hiện nay anh H đang chờ chấp hành hình phạt tù tại trại giam số 1 – Công an Thành phố Hà Nội. Anh H đồng ý ly hôn. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh H là phù hợp với pháp luật và thực tế.
- Về con chung: Chị T và anh L có 03 con chung là:
1. Hoàng Minh V, sinh ngày 21/01/2008
2. Hoàng Bảo T, sinh ngày 21/05/2010
3. Hoàng Anh T, sinh ngày 21/10/2016
Hiện các con chung đang ở cùng chị, khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cả 03 con chung cho chị trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh H đang bị tạm giam chờ đi chấp hành hình phạt tù, không có điều kiện để nuôi con. Anh H đồng ý để chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng các con , không có tranh chấp gì. Hội đồng xét xử giao con chung cho chị T chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 2 điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H đến khi chị T có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.
- Về tài sản và công nợ chung: Không có, nên không xét.
-Về án phí: chị T tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Áp dụng Điều 147, 207, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử :
1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị T đối với anh Hoàng Thanh H. Chị T được ly hôn với anh H.
2.Về con chung: Giao cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 03 con chung là - Hoàng Minh Vy, sinh ngày 21/01/2008 - Hoàng Bảo Thy, sinh ngày 21/05/2010 - Hoàng Anh Tùng, sinh ngày 21/10/2016.
Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H đến khi chị T có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.
Anh H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.
3.Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Không có, nên không xét.
4.Về án phí : Chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003631 ngày 08/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận T.
Chị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./
Bản án 13/2019/HNGĐ ngày 25/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 13/2019/HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tây Hồ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về