Bản án 13/2018/HSST ngày 27/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC THỦY, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 13/2018/HSST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Thủy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2018/HSST ngày 22/8/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/HSST-QĐ ngày 14/9/2018 đối với bị cáo:

Đỗ Văn H, sinh ngày 28/02/1996; tại: xã A, huyện M, thành phố H. Tên gọi khác (không)

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã A, huyện M, thành phố H.

Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Trình độ văn hóa: 12/12.

Giới tính: Nam.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

Con ông Đỗ Ngọc A, sinh năm: 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1960 (Đã chết)

Vợ, con: Chưa có.

Tiền sự, tiền án: không

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2018 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22h ngày 29/5/2018 tại khu vực cổng chào thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình bị cáo Đỗ Văn H có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã A, huyện M, thành phố H đã bị tổ công tác Công an huyện Lạc Thủy phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cùng tang vật vụ án:

- Hai túi nilon có kích thước 8x14cm, bên trong túi thứ nhất có 03 túi nilon nhỏ có kích thước 1x1,5cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; bên trong túi thứ hai có 04 túi nilon nhỏ trong đó 02 túi có kích thước 2x2cm và hai túi còn lại có kích thước 1,7x1,5cm và 1,5x2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

- 01 ống thủy tinh hình dạng một đầu thẳng, một đầu cong;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 màu vàng, đã qua sử dụng.

Căn cứ Quyết định trưng cầu giám định số 16 ngày 30 tháng 5 năm 2018 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy. Tại bản Kết luận giám định số 2944/C54 (TT2) ngày 08/6/2018 của Viện khoa học hình sự hình sự - Bộ Công an kết luận: Tinh thể màu trắng trong các túi nilon ký hiệu M1 và M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu tinh thể 0,859gam. Methamphetamine nằm trong danh mục IIC, số thứ tự: 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Quá trình điều tra cho thấy bị cáo Đỗ Văn H là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ khoảng đầu tháng 5/2018 và thường đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Ngày 25/5/2018, qua nghe bạn bè nói chuyện bị cáo đã tự mình tìm đến khu vực Cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội mua ma túy của một người đàn ông với đặc điểm cao khoảng 1m65 khoảng 45 tuổi, dáng người gầy, đen, mặc áo nâu, quần đen, đội mũ phớt màu đen với số tiền 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng). Sau khi mua được chất ma túy, bị cáo mang về chia nhỏ thành 09 (chín) phần, mỗi phần đựng trong một túi nilon nhỏ. Từ khi mua đến ngày 29/5/2018, bị cáo đã sử dụng hết hai túi. Số ma túy còn lại bị cáo cất trong túi quần để sử dụng dần.

Ngày 29/5/2018, do có mối quan hệ quen biết với gia đình chị Bùi Thị H1 trú tại thôn V-xã T-h L - Hòa Bình nên sau khi đám cưới bạn xong, bị cáo đã ra đường và đi nhờ xe của một người đi đường vào nhà chị H. Khi đi, bị cáo mang theo số ma túy còn lại để sử dụng. Đến khoảng 22h cùng ngày, khi bị cáo Đỗ Văn H đang đứng ở khu vực cổng chào thôn Vôi - Thanh Nông thì bị tổ công tác Công an huyện Lạc Thủy kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho bị cáo ở khu vực cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội mà bị cáo không biết tên, tuổi với đặc điểm “Cao khoảng 1,65m khoảng 45 tuổi, dáng người gầy đen, mặc áo nâu, quần đen, đội mũ phớt đen” Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy đã tiến Hành điều tra xác minh nhưng không có kết quả nên tiếp tục phối hợp theo dõi, điều tra để xử lý sau.

Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang ngày 29/5/2018 bị cáo còn khai nhận hai lần đi mua ma túy về sử dụng, quá trình điều tra chưa có căn cứ, tài liệu chứng minh lời khai của bị cáo nên tiếp tục điều tra,có căn cứ sẽ xử lý theo theo quy định của pháp luật.

Đối với chị Bùi Thị H, quá trình điều tra xác định giữa chị H và bị cáo chỉ là quen biết. Chị H không biết việc bị cáo tàng trữ ma túy trước khi đến nhà chơi và bị bắt. Do đó, không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 10/CT -VKSLT ngày 22/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủy đã truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Thủy thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố; bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng khoản 1,3 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,547 là ma túy sau giám định và các vỏ bao gói trong phong bì niêm phong, là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Tịch thu tiêu hủy 01 ống thủy tinh dùng vào việc hút ma túy;

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 đã qua sử dụng không liên quan gì đến vụ án. Bảo lưu để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo Đỗ Văn H, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với Cơ quan điều tra cũng như nội dung cáo trạng truy tố là đúng với diễn biến khách quan của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa; HĐXX nhận định:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Thủy, Điều tra viên, VKSND huyện Lạc Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo trong vụ án. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại gì. Việc xét xử vắng mặt người chứng kiến và một số người khác được triệu tập đến phiên tòa như đã nêu trên là phù hợp với quy định tại Điều 293 BLTTHS không ảnh hưởng quá trình giải quyết, xét xử khách quan của vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Đỗ Văn H là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực trách nhiệm hình sự. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ khác do Cơ quan CSĐT thu thập được cũng như nội dung Cáo trạng mà VKSND huyện Lạc Thủy đã truy tố. Do đó đủ căn cứ xác định, bị cáo Đỗ Văn H sinh ngày 28/02/1996 có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã A, huyện M, thành phố H là người sử dụng trái phép chất ma túy, khoảng 22h ngày 29/5/2018 bị cáo H đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cùng tang vật vụ án là:

- Hai túi nilon có kích thước 8x14cm, bên trong túi thứ nhất có 03 túi nilon nhỏ có kích thước 1x1,5cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; bên trong túi thứ hai có 04 túi nilon nhỏ trong đó 02 túi có kích thước 2x2cm và hai túi còn lại có kích thước 1,7x1,5cm và 1,5x2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

- 01 ống thủy tinh hình dạng có một đầu thẳng, một đầu cong;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 màu vàng đã qua sử dụng

Tại bản Kết luận giám định số 2944/C54 (TT2) ngày 08/6/2018 của Viện khoa học hình sự hình sự - Bộ Công an kết luận: Tinh thể màu trắng trong các túi nilon ký hiệu M1 và M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu tinh thể ký hiệu M1 và M2 là 0,859gam Methamphetamine nằm trong danh mục IIC, số thứ tự: 323; Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Hành vi của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, bị cáo Đỗ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và những người khác cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Gieo rắc cái chết trắng cho chính bản thân bị cáo và bao người nhất là thế hệ trẻ, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy. Cả loài người đang bằng mọi cách chống lại ma túy vì nó hủy hoại cả một thế hệ trẻ tương lai. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo được sinh ra trong gia đình lao động được bố mẹ nuôi ăn học hết phổ thông, mẹ mất sớm lẽ ra bị cáo phải vượt lên khó khăn, tu chí làm ăn, song bị cáo đã không làm được điều đó mà a dua chơi bời theo những phần tử xấu rồi sớm đi vào con đường sử dụng trái phép chất ma túy. Để có nhu cầu sử dụng, bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội, cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết nào. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa ngày hôm nay thấy rằng, bị cáo là đối tượng nghiện hút chất ma túy, bỏ nhà đi ba năm nay không có chỗ ở và công việc ổn định, do đó cần xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho bị cáo ở khu vực cầu Diễn - Nam Từ Liêm - H mà bị cáo không biết tên, tuổi với đặc điểm “Cao khoảng 1,65m khoảng 45 tuổi, dáng người gầy đen, mặc áo nâu, quần đen, đội mũ phớt đen” Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy đã tiến Hành điều tra xác minh nhưng không có kết quả nên tiếp tục phối hợp theo dõi, điều tra để xử lý sau. Nên HĐXX không đề cập.

Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang ngày 29/5/2018 bị cáo còn khai nhận hai lần đi mua ma túy về sử dụng, quá trình điều tra chưa có căn cứ, tài liệu chứng minh lời khai của bị cáo nên tiếp tục điều tra, có căn cứ sẽ xử lý theo theo quy định của pháp luật nên HĐXX không đề cập.

Đối với chị Bùi Thị H, quá trình điều tra xác định giữa chị H và bị cáo chỉ là quen biết. Chị H không biết việc bị cáo tàng trữ ma túy trước khi đến nhà chơi và bị bắt. Do đó, không đề cập xử lý. Nên HĐXX không đề cập.

[3] Về vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,547gam ma túy còn lại sau giám định và các vỏ bao gói là chất nằm trong danh mục cấm lưu hành của nhà nước nên tịch thu, tiêu hủy;

- 01 ống thủy tinh H dùng vào việc hút ma túy nên tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5 màu vàng, đã qua sử dụng bị cáo dùng để liên lạc với bạn bè, người thân không liên quan gì đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy nên trả lại cho bị cáo H. Cần bảo lưu để đảm bảo thi hành án.

Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm mô tả cụ thể tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/9/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thủy.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa có ý kiến đề nghị về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Tuyên phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS, khoản 1,3 Điều 329 BLTTHS; xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3/ Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự, điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 0,547 gam ma túy sau giám định và các vỏ bao gói; 01 ống thủy tinh;

+ Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5. Bảo lưu để đảm bảo thi hành án.

Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm mô tả cụ thể tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/9/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thủy.

4/ Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đỗ Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HSST ngày 27/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về