Bản án 13/2018/DS-PT ngày 12/01/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 13/2018/DS-PT NGÀY 12/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2017/TLPT-DS ngày 03 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 94/2017/DS-ST ngày 29/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 313/2017/QĐPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ánh Ng (Tên gọi khác là Linh), sinh năm 1990 (vắng mặt). Địa chỉ cư trú: xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Đặng Phi V, sinh năm 1964 (có mặt). Địa chỉ cư trú: xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Tạm trú: xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Ông Đặng Phi V - Bị đơn

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/7/2017 và các lời khai tại Tòa án, Chị Trần Thị Ánh Ng(nguyên đơn) trình bày:

Vào ngày 22/8/2016 âm lịch chị có cho ông V vay 2,5 chỉ vàng 24k, khi vay hai bên có làm biên nhận, lãi suất 250.000 đồng/tháng nhưng từ khi vay đến nay ông V không đóng lãi và trả vốn, chị đã yêu cầu ông V trả nhiều lần nhưng ông V không trả. Số vàng này chị cho ông V vay và ông V trực tiếp làm biên nhận nên chị không yêu cầu vợ ông V phải có trách nhiệm trả nợ. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông V phải trả 2,5 chỉ vàng 24k và không yêu cầu lãi.

Đối với Ông Đặng Phi V, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý về yêu cầu của chị Ng nhưng ông V không có ý kiến. Tòa án thông báo để ông V tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng ông V vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 94/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C quyết định:

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 91, 147, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463 và 466 của Bộ luật Dân Sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ánh Nguyệt.

Buộc Ông Đặng Phi V phải có nghĩa vụ trả cho Chị Trần Thị Ánh Ngsố vàng là 2,5 chỉ vàng 24k (Hai chỉ năm phân vàng 24k).

Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc Ông Đặng Phi V phải chịu 435.000 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước khi án có hiệu lực pháp luật. Chị Trần Thị Ánh Ng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho chị Ng300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003694 ngày 24/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 13/10/2017, Ông Đặng Phi V có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu công nhận ông đã trả vàng cho ông Mai Văn Nhí là đúng chủ nợ vì có Biên nhận nợ của ông Nhí.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Vvẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định; Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Vụ, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông V không đồng ý bản án sơ thẩm tuyên buộc ông trả 2,5 chỉ vàng 24K cho chị Ngvới lý do ông đã trả xong cho chồng chị Ngtên là Nhí, ông yêu cầu cấp phúc thẩm công nhận ông đã trả vàng cho ông Nhí là đúng chủ nợ, không chấp nhận khởi kiện của chị Nguyệt.

[2] Hội đồng xét xử thấy rằng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử sơ thẩm ông V không có ý kiến gì đối với số nợ mà chị Ng yêu cầu và cũng không cung cấp chứng cứ gì thể hiện từ ngày vay cho đến ngày xét xử sơ thẩm ông V có trả số nợ đã vay cho chị Nguyệt. Cụ thể: Ngày 27/7/2017 Ông Đặng Phi V đã nhận được Thông báo thụ lý, Thông báo hòa giải (BL16); Ngày 29/8/2017, Tòa án nhân dân huyện C có làm việc với ông V(BL 30) thì ông yêu cầu điều chỉnh nơi đăng ký hộ khẩu của ông là ấp ông Khâm, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, ông cũng cung cấp chứng cứ gì. Khi Tòa án có Quyết định đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất vào ngày 13/9/2017, ông V nhận Quyết định nhưng không đến, Tòa án đã niêm yết giấy triệu tập xét xử lần hai vào ngày 29/9/2017 thì ông Vmới có mặt và cung cấp biên nhận nợ của ông Mai Văn Nhí ngày 03/6/2017 (BL 39). Ông Vcho rằng anh Nhí đã nhận vàng xem như đã thanh toán xong nợ, không biết vợ chồng Nhí đã ly hôn.

[3] Xét thấy, tại biên nhận ngày 22/8/2016 âm lịch mà chị Ng cung cấp cho Tòa án (BL 05) có chữ ký và viết tên của ông Vụ, nội dung thể hiện ông Vcó vay của chị Ng 2,5 chỉ vàng 24k được ông V thừa nhận. Tại tòa, ông V lý giải trước đó ông vay của vợ chồng chị Ng 2,5 chỉ vàng 24k, khi vay không làm giấy tờ, sau đó thì ông V có làm biên nhận đối với chị Ng vào ngày 22/8/2016 âm lịch nhưng ông lại trả cho anh Mai Văn Nhí chồng chị Nguyệt, được anh Nhí viết biên nhận ngày 03/6/2017 có nội dung: “Con Mai Văn Nhí có nhận của cha Đặng Phi Vụ 02 chỉ vàng 24K, còn 5 phân vợ chồng con thống nhất lấy một triệu, còn lại bao nhiêu cho cha mẹ”. Thấy rằng, biên nhận này không xác định được thời gian trả và “vợ chồng con” là ai? Vì anh Nhí với chị Ng đã ly hôn trước đó gần một năm, lẽ nào ông Vlà cha lại không biết, trong khi ông V ký tên vào biên nhận vay vàng của chị Ng ngày 22/8/2016 âm lịch (nhằm ngày 22/9/2016 dương lịch) thì anh Nhí và chị Ng đã ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển thể hiện tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn ngày 29/8/2016 (BL 01). Về nội dung biên nhận thể hiện ông V chỉ hỏi vay vàng của chị Nguyệt, không hỏi vay vàng của vợ chồng chị Ng và anh Nhí.

Ngoài ra, ông V cũng không có chứng cứ gì chứng minh cho rằng vay 2,5 chỉ vàng 24k là vay của vợ chồng chị Ng và anh Nhí, trong khi ông V đã thừa nhận có ký tên vào biên nhận nợ vàng của chị Ng ngày 22/8/2016. Hơn nữa, quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm, ông V không tuân thủ quy định của pháp luật từ khi thụ lý đến khi xét xử, ông không phản tố, không yêu cầu triệu tập anh Nhí đến để làm rõ vấn đề có liên quan vụ án hay không, đến khi xét xử ông mới đặt ra. Do vậy, cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Ng buộc ông V phải có nghĩa vụ trả cho chị Ng số vàng là 2,5 chỉ vàng 24k là có cơ sở. Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn nhận định nếu ông V và anh Nhí có phát sinh tranh chấp thì ông V có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác là phù hợp.

[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Vụ, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.

[5] Do kháng cáo của ông V không được chấp nhận nên ông V phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH12 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của Ông Đặng Phi V.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 94/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ánh Nguyệt. Buộc Ông Đặng Phi V phải có nghĩa vụ trả cho Chị Trần Thị Ánh Ngsố vàng là 2,5 chỉ vàng 24k (Hai chỉ năm phân vàng 24k).

Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc Ông Đặng Phi V phải chịu 435.000 đồng (chưa nộp). Chị Trần Thị Ánh Ngkhông phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, ngày 24/7/2017 chị Ng dự Nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003694 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước được nhận lại.

Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đặng Phi V phải nộp 300.000 đồng. Ngày 13/10/2017 ông Vđã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003871 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước được chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

384
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/DS-PT ngày 12/01/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:13/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về