Bản án 13/2017/HNGĐ-ST ngày 04/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 13/2017/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 8 năm 2017 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2017/TLST- HNGĐ, ngày 22 tháng 5 năm 2017 về “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T sinh năm 1986, địa chỉ ấp C, xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn U sinh năm 1981, địa chỉ ấp C, xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Văn U tự nguyện tiến tới hôn nhân năm 2001 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh năm 2007. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và có 02 người con chung là Nguyễn Văn M sinh ngày 26-4-2002 và Nguyễn Thị P sinh ngày 30-01-2004. Cuối năm 2007 chị T và anh U xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống thường xuyên cãi vã, không thương yêu và quan tâm lẫn nhau, sau đó mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng nên anh, chị không còn sống chung cho đến nay. Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh U, về con chung yêu cầu được nuôi dưỡng Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị P, không yêu cầu anh U cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung không yêu cầu giải quyết, về nợ chung không có không yêu cầu giải quyết. Anh Nguyễn Văn U đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Trần Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; anh Nguyễn Văn U đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Vụ án được thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và hòa giải đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung vụ án, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh U đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị T được ly hôn anh U; về con chung gồm Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị P có nguyện vọng sống với chị T nên đề nghị giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, ngoài ra đương sự không yêu cầu gì khác nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến, yêu cầu của đương sự, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Nguyễn Văn U đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú cuối cùng tại xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh, đối chiếu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Trà Vinh.

[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét thấy đơn khởi kiện của chị Trần Thị T có nội dung yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con nên có quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn U đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh U.

 [4]. Về hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị T, thấy rằng chị T và anh Nguyễn Văn U tự nguyện tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N đúng theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh U là hợp pháp. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh U xảy ra từ năm 2007 đến nay, xuất phát từ việc bất đồng quan điểm sống thường xuyên mâu thuẫn cãi vã lẫn nhau, hơn nữa anh, chị không còn sống chung nhiều năm mà không có giải pháp hàn gắng đoàn tụ với nhau, qua xác minh thực tế tại nơi chị T và anh U sinh sống thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa anh, chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn anh U.

[5]. Về con chung: Chị T và anh U có 02 người con chung là Nguyễn Văn M và Nguyễn Thị P thấy rằng từ khi anh, chị không còn sống chung đều do chị T nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, hơn nữa các cháu M và P cùng có nguyện vọng sống chung với chị T, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cho chị T được tiếp tục chăm sóc giáo dục và nuôi dưỡng M và P.

[6]. Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử đã giải thích nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn theo quy định tại các Điều 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình nhưng T vẫn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

[7]. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[8]. Về nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[9]. Về án phí: Chị Trần Thị T phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn U.

Về con chung: Giao cho chị Trần Thị T được nuôi dưỡng 02 người con chung là Nguyễn Văn M sinh ngày 26-4-2002 và Nguyễn Thị P sinh ngày 30-01-2004.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Văn U cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Không bên nào được ngăn cản việc trong nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn.

Vì lợi ích của con chưa thành niên khi cần thiết và có yêu cầu của các bênTòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Trần Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009599 ngày 19 tháng 5 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Trà Vinh.

Án sơ thẩm nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HNGĐ-ST ngày 04/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về