TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 13/2017/HC-PT NGÀY 12/12/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO THU HỒI ĐẤT
Trong ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số 09/2017/HCPT ngày 02/11/2017 về việc: “khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do thu hồi đất”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2017/QĐXX-PT ngày 28 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:
1) Người khởi kiện: Ông Trần Thúc D, sinh năm 1954;
Địa chỉ: Khu phố 5, phường P, TP. PT, tỉnh Bình Thuận; có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích của người khởi kiện: Luật sư Thái Quang Thượng N - Văn phòng luật sư TN - Đoàn luật sư tỉnh BT; có mặt.
2) Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố PT;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Ngọc Đ - Chủ tịch;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hoàng K - Phó Chủ tịch; vắng mặt.
3) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Trung tâm phát triển Quỹ đất tỉnh B;
Địa chỉ: Đường PH, Khu tái định cư ĐXA, phường P, TP. PT, tỉnh BT.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Hoài N - Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Lê Duy L - Trưởng Phòng Quản lý quỹ đất - Trung tâm phát triển Quỹ đất tỉnh BT; có mặt.
Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân thành phố PT - là Người bị kiện trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện Trần Thúc D trình bày:
Ngày 12/11/2004, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố PT ban hành Quyết định số 9077/QĐ-UBPT “Về việc thu hồi đất của ông Trần Thúc D”, thu hồi 7.527 m² đất của gia đình ông Trần Thúc D. Đến ngày 26/9/2007, Ủy ban nhân dân thành phố PT ban hành Quyết định số 6925/QĐ-UBND “V/v điều chỉnh diện tích đất thu hồi của hộ gia đình ông Trần Thúc D tại quyết định số 9077/QĐ-UBPT ngày 12/01/2004 của Ủy ban nhân dân thành phố PT”, điều chỉnh diện tích thu hồi của hộ gia đình ông Trần Thúc D lên 8.056,0 m² (tăng 529 m²). Sau khi ban hành hai quyết định số 9077/QĐ-UBPT và số 6925/QĐ-UBND nói trên, Ủy ban nhân dân thành phố PT đã ban hành các Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 “Về việc bồi thường thiệt hại của hộ ông Trần Thúc D để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe MMSpa”, bồi thường về đất cho hộ gia đình ông D 442.965.600 đồng và Quyết định số 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 “Về việc phê duyệt kinh phí bồi thường thiệt hại của hộ ông Trần Thúc D để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe MMSpa, bồi thường thiệt hại về cây cối, hoa màu cho hộ gia đình ông D 57.861.000 đồng.
Ông Trần Thúc D cho rằng các quyết định về việc bồi thường số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố PT ban hành ra là trái quy định pháp luật, vì không căn cứ vào bất cứ quyết định thu hồi đất cụ thể nào của Ủy ban nhân dân thành phố PT. Mặt khác đây là dự án thu hồi đất để thực hiện dự án sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nên Doanh nghiệp phải thỏa thuận đền bù với chủ sử dụng đất, chứ Nhà nước không được can thiệp áp giá đền bù. Cho nên ông Trần Thúc D yêu cầu Tòa án hủy hai Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 “Về việc bồi thường thiệt hại của hộ ông Trần Thúc D để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe MMSpa” và Quyết định số 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 “Về việc phê duyệt kinh phí bồi thường thiệt hại của hộ ông Trần Thúc D để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe MMSpa” của Ủy ban nhân dân thành phố PT, tỉnh BT.
Người bị kiện (đại diện của Ủy ban nhân dân thành phố PT) trình bày:
Hai Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 và số 3629 QĐ-UBND ngày 28/8/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố PT ban hành thực tế là xuất phát từ các quyết định số 9077/QĐ-UBPT và số 6925/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố PT thu hồi đất của hộ gia đình ông Trần Thúc D không đúng pháp luật.
Do đó hai quyết định phê duyệt và bồi thường số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND cũng không đúng. Tuy nhiên do chưa có chủ trương của UBND tỉnh thu hồi, cho nên Ủy ban nhân dân thành phố PT chưa có cơ sở hủy hai quyết định phê duyệt và bồi thường này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (đại diện của Trung tâm phát triển Quỹ đất tỉnh BT) trình bày:
Khi UBND tỉnh BT ban hành các quyết định số 4105/QĐ-UBND và quyết định số 94/QĐ-UBND về việc thu hồi tổng thể đất tại phường PH để cho Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM thuê đất để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe MMSpa thì Trung tâm không có tham mưu mà do Sở Tài nguyên và Môi trường BT tham mưu. Trung tâm chỉ thực hiện tổ chức kiểm tra, lập phương án, trình Hội đồng thẩm định của tỉnh giải quyết việc bồi thường. Trên cơ sở Tờ trình số 2809/PTQĐ-AGĐB ngày 25/8/2009 của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh, Ủy ban nhân dân thành phố PT đã ban hành các quyết định về việc phê duyệt, bồi thường thiệt hại số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 và số 3629 QĐ-UBND ngày 28/8/2009, bồi thường về đất, cây cối hoa màu đối với hộ gia đình ông Trần Thúc D. Hiện nay Công ty TNHH Thương mại Du lịch M.M đã chuyển tiền vào Kho bạc Nhà nước để bồi thường cho ông Trần Thúc D nhưng ông D chưa chịu nhận tiền bồi thường. Trung Tâm phát triển quỹ đất tỉnh đã có kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố PT báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh về các quyết định thu hồi đất đối với hộ ông Trần Thúc D chưa đúng với các Điều 38, 39, 40 Luật đất đai năm 2003 để có hướng xử lý đối với các quyết định bồi thường số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND bị khởi kiện.
Tại bản án Hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT đã quyết định:
1/ Áp dụng: Điều 27; Điều 28; Điều 29; Điều 30; Điều 31; Điều 103; Điều 104; Điều 158 Luật tố tụng Hành chính; Điều 38, 39, 40 và 44 Luật Đất đai năm 2003.
Pháp lệnh 10/2009/UBNTQH12 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/02/2009.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thúc D về việc yêu cầu hủy Quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân thành phố PT.
- Hủy Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố PT về việc bồi thường thiệt hại của hộ ông Trần Thúc D và Quyết định 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố PT về việc phê duyệt kinh phí bồi thường thiệt hại của hộ gia đình ông Trần Thúc D.
2/ Án phí Hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố PT phải chịu án phí Hành chính sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn).
Hoàn trả lại cho ông Trần Thúc D 200.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí hành chính biên lai số 0001486 ngày 06/7/2012 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố PT.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 02/10/2017, người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố PT làm đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT theo hướng giữ nguyên các quyết định số 1914/QĐ-UBND và quyết định 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố PT.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Người bị kiện đã kháng cáo vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Đơn xin xét xử vắng mặt của người bị kiện không đề cập đến việc rút kháng cáo, nên được coi như việc Người bị kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người khởi kiện không rút đơn khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của Người bị kiện, giữ y bản án sơ thẩm.
Phát biểu sau tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BT xác định: Ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người tiến hành tố tụng của Tòa án đã thực hiện đúng quy định; người tham gia tố tụng quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BT đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án vì đã bỏ sót người tham gia tố tụng là Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự, ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BT;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về kháng cáo của người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố PT: Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT, người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố PT vắng mặt có lý do chính đáng. Sau khi tuyên án, ngày 18/9/2017 Tòa án nhân dân thành phố PT mới tống đạt bản án sơ thẩm cho người bị kiện. Ngày 02/9/2017, người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố PT làm đơn kháng cáo nộp tại Tòa án nhân dân thành phố PT - là kháng cáo trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 206 Luật Tố tụng hành chính. Hình thức và nội dung đơn kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố PT cũng phù hợp với quy định tại Khoản 1 và Khoản 4 Điều 205 Luật Tố tụng hành chính. Do vậy kháng cáo Ủy ban nhân dân thành phố PT đối với bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 là phù hợp với quy định của pháp luật, đủ điều kiện để Tòa án nhân dân tỉnh BT xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Không đồng ý với 4 Quyết định của Chủ tịch và của UBND thành phố PT trong việc thu hồi, bồi thường thiệt hại đối cùng một diện tích đất bị thu hồi, cùng ngày 12/6/2017, ông Trần Thúc D đã có 3 đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân thành phố PT đã thụ lý thành 3 vụ án độc lập, gồm: Đơn khởi kiện đối với Quyết định số 6925/QĐ-UBND, Tòa án nhân dân thành phố PT đã thụ lý vụ án số 14/2012/TLST-HC ngày 06/7/2012; Đơn khởi kiện đối với các Quyết định số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND, Tòa án nhân dân thành phố PT đã thụ lý số 15/2012/TLST-HC ngày 06/7/2012; Đơn khởi kiện đối với quyết định số 9077/QĐ-UBPT, Tòa án nhân dân thành phố PT thụ lý số 16/2012/TLST-HC ngày 06/7/2012. Trong quá trình giải quyết các vụ án này, ngày 17/02/2014, Tòa án nhân dân thành phố PT đã ban hành Quyết định nhập vụ án số 01/2014/QĐ-NVA, nhập vụ án thụ lý số 14/2012/TLST-HC và vụ án thụ lý số 15/2012/TLST-HC thành một vụ án để giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thúc D đối với 3 quyết định, gồm: Quyết định số 6925/QĐ-UBND, quyết định số 1914/QĐ-UBND và quyết định số 3629/QĐ-UBND. Thế nhưng, khi xét xử vụ án và ban hành bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố PT lại xét xử vụ án đã thụ lý 15/2012/TLST-HC - trong khi vụ án này đã được nhập với vụ án thụ lý số 14/2012/TLST-HC. Dẫn đến việc bản án số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT đã giải quyết thiếu yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thúc D đối với quyết định số 6925/QĐ-UBND; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[3] Để thực hiện Quyết định số 4105/QĐ-CT.UBBT ngày 22/9/2004 và các quyết định điều chỉnh quyết định số 4105/QĐ-CT.UBBT của Chủ tịch UBND tỉnh BT “V/v thu hồi và cho Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM thuê đất để xây dựng Nhà hàng ăn uống và phục hồi sức khỏe...” tại phường PH, thành phố PT. Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố PT đã ban hành các quyết định số 9077QĐ-UBPT ngày 12/11/2004 và Quyết định số 6925/QĐ-UBND ngày 26/9/2007, thu hồi của hộ gia đình ông Trần Thúc D 8.056,0 m² đất các loại, Ủy ban nhân dân thành phố PT cũng đã ban hành các quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 “Về việc bồi thường thiệt hại...”, bồi thường thiệt hại về đất cho hộ ông Trần Thúc D 442.965.600 đồng và quyết định số 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 “Về việc phê duyệt kinh phí bồi thường...”, bồi thường thiệt hại về cây cối, hoa màu cho hộ gia đình ông Trần Thúc D 57.861.000đ. Trong quá trình triển khai thực hiện các quyết định nói trên của UBND tỉnh BT và UBND thành phố PT, Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM đã có hợp đồng với Ban đền bù giải tỏa của tỉnh BT để làm công tác đền bù giải tỏa; đồng thời đã chuyển 2.326.231.877 đồng vào Kho bạc nhà nước để thực hiện việc bồi thường cho các hộ dân có đất bị thu hồi. Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM cũng đã xin phép và được Sở xây dựng tỉnh BT cấp giấy phép xây dựng số 163/GPXD ngày 23/11/2005 để xây dựng nhà hàng và đã tiến hành xây dựng dở dang do một số hộ dân trong đó có hộ ông Trần Thúc D đang khiếu nại, khởi kiện, chưa bàn giao mặt bằng. Bởi vậy, việc giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thúc D đối với các quyết định về bồi thường thiệt hại do việc thu hồi đất (các quyết định số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND) của Ủy ban nhân dân thành phố PT có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM. Thế nhưng, trong quá trình giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm, Tòa án nhân dân thành phố PT không đưa Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của Công ty TNHH Thương mại Du lịch MM.
[4] Các vi phạm về thủ tục tố tụng như đã nhận định trên của Tòa án cấp sơ thẩm là nghiêm trọng. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy cần phải hủy bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, xét xử lại theo quy định của pháp luật.
[5] Theo quy định tại Khoản 1 Điều 371 và Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án khiếu kiện các quyết định hành chính số 1914/QĐ-UBND và số 3629/QĐ-UBND (nói trên) của Ủy ban nhân dân thành phố PT, tỉnh BT là Tòa án nhân dân tỉnh BT. Do vậy, sau khi hủy bản án sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT, hồ sơ vụ án được giao cho Tòa án nhân dân tỉnh BT để giải quyết, xét xử sơ thẩm lại.
[6] Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố PT bị hủy để xét xử sơ thẩm lại, nên nội dung kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố PT đối với bản án sơ thẩm này Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.
[7] Về án phí hành chính phúc thẩm, tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm và nghĩa vụ chịu án phí hành chính sơ thẩm:
Do bản án hành chính sơ thẩm bị kháng cáo bị hủy, cho nên theo quy định tại Khoản 3 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính, Ủy ban nhân dân thành phố PT không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm;
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 34 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” thì số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm mà ông Trần Thúc D đã nộp theo Biên lai số 0001486 ngày 06/7/2012 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố PT và nghĩa vụ chịu án phí hành chính sơ thẩm sẽ được xem xét, quyết định lại khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 30, Điều 32, Khoản 3 Điều 241, Khoản 3 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính; Khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.
Tuyên xử: Hủy bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HC-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân Tp. PT về vụ “Khiếu kiện yêu cầu hủy Quyết định số 1914/QĐ-UBND ngày 10/4/2009 và Quyết định số 3629/QĐ-UBND ngày 28/8/2009 của UBND TP. PT” giữa người khởi kiện ông Trần Thúc D và người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố PT, tỉnh BT.
Chuyển hồ sơ vụ án trên cho Tòa án nhân dân tỉnh BT để xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Về án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố PT không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Hoàn trả cho Ủy ban nhân dân TP. PT 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số 0020004 ngày 19/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố PT tỉnh BT.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 12/12/2017.
Bản án 13/2017/HC-PT ngày 12/12/2017 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do thu hồi đất
Số hiệu: | 13/2017/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về