TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 131/2019/HS-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 20 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 113/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2019/QĐXXST-HS, ngày 06/9/2019 đối với các bị cáo:
1. Đoàn HT, sinh năm: 1964 tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh); nơi cư trú: (Hộ khẩu thường trú: Số 49D/22 HQ, Phường o, Quận p, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 86 HT, Phường p, Quận o, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn VD và bà Lê TC ; có vợ tên Nguyễn TP và có 01 con (sinh năm: 1986); Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 29/STHS ngày 25/02/2002, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nVH cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 năm 06 tháng tính, kể từ ngày tuyên án; chấp hành xong bản án ngày 27/11/2014. Ngày 09/9/2011, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời gian 24 tháng, về hành vi sử dụng chất ma túy. Ngày ngày 14/8/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện tại địa phương, thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 11/9/2013; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2019. (Có mặt).
2. Nguyễn VH, sinh năm: 1977 tại Nam Định; nơi cư trú: (Hộ khẩu thường trú: Số 47/42/34B BTR, Phường q, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định); nghề nghiệp: Làm công; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn VP và bà Trịnh TT; có vợ tên Trương Thị MN (đã ly hôn) và có 02 con (sinh năm 2006 và 2011); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2019. (Có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn VT, sinh năm: 1966; nơi cư trú: Số 145/51/11 Lê Đức Thọ, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các VT liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 18 giờ 30 phút, ngày 25/3/2019, tại trước số 36 HQ, Phường x, Quận x; tổ trinh sát Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 8 nghi vấn Đoàn HT và Nguyễn VH có liên quan đến ma túy nên kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện thu giữ dưới đất ngay chỗ VT và VH đứng có 01 gói nylon đựng 02 gói nylon chứa heroine. VH và VT khai nhận là heroine của VH vừa mua của VT với giá 200.000 đồng, khi thấy Công an, VH ném gói ma túy xuống đất. Ngoài ra, Công an còn thu giữ 01 xe gắn máy biển số: 53V7-1725 của VH và số tiền 450.000 đồng của VT. Sau đó, Công an tiến hành dẫn giải VT, VH và đưa toàn bộ vật chứng về trụ sở Công an Phường 14, Quận 8 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và chuyển giao hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 điều tra làm rõ.
Theo bản kết luận giám định số 784/KLGĐ-H ngày 04/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 02 gói nylon (để trong 01 gói nylon) được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn VH, Đoàn HT và hình dấu Công an phường 14, Quận 8 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1600g (không phẩy một sáu không không gam), loại Heroine.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Đoàn HT và Nguyễn VH khai nhận: Do cần tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng, nên VT đã thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý” được khoảng 02 tuần và cách khoảng 02 ngày thì VT đến khu vực đầu hẻm 25C Hoài Thanh, Phường 14, Quận 8 để tìm mua ma túy của nhiều người khác nhau (không rõ lai lịch), mỗi lần mua 01 gói heroine với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, VT tự dùng bịch nylon, dao lam và quẹt ga để phân chia gói ma túy vừa mua thành 05 gói nhỏ để bán lại cho người mua với giá từ 90.000 đồng đến 100.000/01 gói để kiếm lời. Mỗi lần bán hết số ma túy đã mua, VT thu lợi được từ 50.000 đồng đến 90.000 đồng, số tiền này VT tiêu xài cá nhân hết. VH mua ma túy của VT về sử dụng và đã mua được 02 lần:
- Lần thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ, ngày 20/3/2019, VT bán cho VH 01 gói heroine giá 100.000 đồng, tại trước số 36 HQ, Phường x, Quận x và VH đã sử dụng hết.
- Lần thứ hai: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 25/3/2019, VH đến trước số 36 HQ, Phường x, Quận x thì gặp VT đang đứng chờ bán ma túy cho người mua. VH đến mua của VT 200.000 đồng heroine, khi VT vừa nhận tiền và đưa VH 01 gói nylon đựng 02 gói heroine thì bị lực lượng Công an kiểm tra và bắt quả tang như trên.
Trong thời gian mua bán ma túy, VT thu lợi bất chính khoảng 300.000 đồng. Vật chứng liên quan:
- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 784/Q8, chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ Lê Hoài An.
- Số tiền 450.000 đồng là tiền của Đoàn HT bán ma túy có được.
- 01 (một) xe gắn máy, biển số 53V7-1725, qua điều tra, xác minh do ông Nguyễn VT (sinh năm: 1966, hộ khẩu thường trú: 145/51/11 Lê Đức Thọ, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông Trận khai đã bán xe trên cho một người không rõ lai lịch, không làm thủ tục sang tên. Nguyễn VH khai mua xe trên của một người không rõ lai lịch với giá 5.500.000 đồng, nVH không làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 có văn bản đề nghị Ban biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đăng tin tìm chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe trên, nVH chưa có kết quả.
Đối với người bán ma túy và những người đã mua ma túy của Đoàn HT, do không xác định được lai lịch, địa chỉ; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không có căn cứ để xử.
Bản cáo trạng số 117/CT-VKS ngày 10/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đoàn HT về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và truy tố bị cáo Nguyễn VH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Điểm b Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo Đoàn HT mức án từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù.
- Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo Nguyễn VH mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
- Về hình phạt bổ sung và số tiền thu lợi bất chính: Phạt bị cáo Đoàn HT số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và buộc bị cáo Đoàn HT nộp lại số tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có (theo khai nhận của bị cáo là 300.000 đồng); để tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
Đối với bị cáo Nguyễn VH được miễn về phần hình phạt bổ sung (do bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, khó thi hành).
- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong chứa ma túy; sung quỹ Nhà nước số tiền 450.000 đồng; xe gắn máy biển số 53V7-1725 thì tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để tìm và trả lại chủ sở hữu hợp pháp trong thời hạn 01 năm, nếu hết thời hạn mà không có người thừa nhận thì tịch thu sung quỹ nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các VT liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn HT đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy và bị cáo Nguyễn VH cũng đã khai nhận toàn bộ hành vi mua trái phép gói ma túy của bị cáo Đoàn HT để sử dụng (do bị nghiện); nVH đã bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 25/3/2019, tại trước số 36 HQ, Phường x, Quận x, Thành phố Hồ Chí Minh.
Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 và phù hợp với các VT liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Chất ma túy mà bị cáo Đoàn HT bán cho bị cáo Nguyễn VH (bị lực lượng Công an thu giữ), qua giám định là ma túy ở thể rắn, loại Heroin, có khối lượng là 0,1600g (không phẩy một sáu không không gam).
Do đó, đã có đủ cơ sở để kết luận:
- Bị cáo Đoàn HT đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Bị cáo Nguyễn VH đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung hình phạt:
Các bị cáo: Đoàn HT, Nguyễn VH đã thừa nhận:
Bị cáo Đoàn HT đã bán trái phép ma túy cho bị cáo Nguyễn VH được 02 (Hai) lần, cụ thể là:
+ Lần thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ, ngày 20/3/2019, VT bán cho VH 01 gói heroine giá 100.000 đồng, tại trước số 36 HQ, Phường x, Quận x và VH đã sử dụng hết.
+ Lần thứ hai: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 25/3/2019, VH đến trước số 36 HQ, Phường x, Quận x gặp VT mua 200.000 đồng heroine; khi VT vừa nhận tiền và đưa VH 01 gói nylon đựng 02 gói heroine thì bị lực lượng Công an phát hiện kiểm tra và bắt quả tang.
Do đó, bị cáo Đoàn HT đã phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên’’, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung hình phạt được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên bị cáo Đoàn HT phải bị xét xử theo điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đối với bị cáo Nguyễn VH, mặc dù khai nhận đã 02 lần mua ma túy của Đoàn HT về sử dụng, nVH không thu giữ được khối lượng chất ma túy của bị cáo đã mua vào lần thứ 1 (vào khoảng 14 giờ, ngày 20/3/2019), nên không đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên’’ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng cần lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Về nhân thân: Bị cáo Đoàn HT có quá trình nhân thân xấu (đã từng bị Tòa án xét xử và đã từng bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc), nVH không chịu sửa chữa lỗi lầm và tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu thành công dân sống có ích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, thể hiện thái độ xem thường pháp luật; nên cần phải lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần về hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.
[6] Bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, mức án mà Kiểm sát viên đề nghị phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo; nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về hình phạt bổ sung và số tiền thu lợi bất chính: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 và Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ VT sản.
- Về hình phạt bổ sung:
+ Đối với bị cáo VT phạm tội nhằm mục đích thu lợi bất chính, nên cần phạt bổ sung bị cáo một số tiền nhất định để tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
+ Đối với bị cáo VH phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính (để sử dụng cho bản thân do bị nghiện ma túy) và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, khó thi hành; nên không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về số tiền thu lợi bất chính: Bị cáo VT phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có (theo khai nhận của bị cáo là 300.000 đồng) để tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
[8] Về vật chứng:
- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 784/Q8, chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ Lê Hoài An; qua giám định bên trong chứa chất ma túy độc hại, cấm tàng trữ, cấm lưu hành; nên tịch thu tiêu hủy.
- Số tiền 450.000 đồng thu giữ của bị cáo VT: Là tiền do phạm tội mà có, nên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
- 01 (một) chiếc xe gắn máy, biển số 53V7-1725, số máy: CPI150FMG010213, số khung: VDEPCG0031D010213 (chiếc xe do bị cáo VH quản lý và đã sử dụng làm phương tiện phạm tội): Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, nên cần tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn một năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nếu quá thời hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
[10] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Đoàn HT và các đối tượng đã mua ma túy của bị cáo VT; do không xác định được lai lịch, nên Cơ quan điều tra không xử lý trong vụ án là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Đoàn HT 08 (Tám) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 25/3/2019.
- Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn VH 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 25/3/2019.
- Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào Khoản 5 Điều 249 và Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
+ Buộc bị cáo Đoàn HT nộp phạt số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
+ Không phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn VH.
- Về số tiền thu lợi bất chính: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Buộc bị cáo Đoàn HT nộp lại số tiền thu bất chính do phạm tội mà có là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) để tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
- Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
+ Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 784/Q8, chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ Lê Hoài An.
+ Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
+ Tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn một năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp đối với 01 (một) chiếc xe gắn máy, biển số 53V7-1725, số máy: CPI150FMG010213, số khung: VDEPCG0031D010213; nếu quá thời hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 187/PNK ngày 09/7/2019 của Cơ quan CSĐT Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh và theo Giấy nộp tiền vào VT khoản lập ngày 09/7/2019 của Kho bạc Nhà nước Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh).
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc các bị cáo: Đoàn HT, Nguyễn VH; mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm với số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án 131/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 131/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về