TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG H, TỈNH B
BẢN ÁN 131/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 331/2019/TLST-HNGĐ, ngày 17 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyeân ñôn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Không có số nhà) thuộc ấp C, xã L, huyện Đông H, tỉnh B.
Bò ñôn: Anh Trần Văn V, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Không có số nhà) thuộc ấp C, xã L, huyện Đông H, tỉnh B.
(Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/7/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng chị Nguyễn Thị T trình bày:
Về hôn nhân: Năm 1990 anh chị tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn: Trong thời gian chung sống không hạnh phúc, thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã do anh V không chung thủy trong đời sống vợ chồng. Nay chị xác định vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu được ly hôn.
Về con chung: Có 03 người con chung tên Trần Hoàng Minh, sinh năm 1991, Trần Ngọc Trinh, sinh năm 1995 và Trần Nhất Nguyên, sinh ngày 21/10/2011. Đối với Hoàng Minh và Ngọc Trinh đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét. Đối với Trần Nhất Nguyên chị yêu cầu được nuôi con và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông H, tỉnh B phát biểu quan điểm cho rằng: quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định Luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
Nội dung vụ án:
Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Trần Văn V.
Về con chung: Giao con chung tên Trần Nhất N, sinh năm 21/10/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện chị T đang nuôi dưỡng được giữ nguyên.
Anh Trần Văn V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
Về tài sản chung và nợ: Không có nên không đặt ra xem xét.
Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T phải nộp số tiền 300.000đ, chị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ được chuyển thu án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông H về tuân theo pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Văn V, có địa chỉ cư trú tại ấp C, xã L, huyện Đông H, tỉnh B. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông H, tỉnh B.
Chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh Trần Văn V vắng mặt lần thứ hai không lý do. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2] Về nội dung:
Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đã triệu tập nhiều lần nhưng anh Trần Văn V vắng mặt không lý do xem như anh tự từ bỏ quyền tham gia tố tụng của anh nên chấp nhận theo lời trình bày của chị T.
Về quan hệ hôn nhân: Năm 1990 anh chị tự nguyện yêu thương chung sống với nhau. Tuy nhiên, trong thời gian chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn, cãi vã. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh V nhiều lần đến để hòa giải đoàn tụ nhưng anh V không đến. Xét thấy, hôn nhân giữa anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp.
Về con chung: Tại biên bản ghi lời khai ngày 19/9/2019 em Trần Nhất Nguyên có nguyện vọng được sống với chị T. Đồng thời, trong thời gian anh chị sống ly thân, con chung do chị T nuôi dưỡng nên cần tiếp tục giao con chung cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp.
Anh Trần Văn V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
Về tài sản chung và nợ: Không có nên không đặt ra xem xét.
Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T phải nộp số tiền 300.000đ, chị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông H theo biên lai thu số 0003801 ngày 17/7/2019 được chuyển thu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, và 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Trần Văn V.
2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Nhất N, sinh năm 21/10/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện chị T đang nuôi dưỡng được giữ nguyên.
Anh Trần Văn V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung và nợ: Không có nên không đặt ra xem xét.
Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T phải nộp số tiền 300.000đ, chị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông H theo biên lai thu số 0003801 ngày 17/7/2019 được chuyển thu án phí.
Án xử công khai, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 131/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn và nuôi con chung
Số hiệu: | 131/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về