Bản án 131/2019/HNGĐ-ST ngày 17/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 131/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 về trA chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXX-ST ngày 07 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Phan Thị B, Hộ khẩu thường trú: thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, địa chỉ cư trú hiện nay: thôn Pháp Kế, xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình; có mặt

- Bị đơn: A Nguyễn Văn T, địa chỉ: thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 02 năm 2019 và tại phiên Toà hôm nay nguyên đơn chị Phan Thị B trình bày:

Chị và A Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào năm 2010. Trong quá trình chung sống giữ vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và đến nay mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, nguyên nhân là do A T cờ bạc, ghen tuông về đánh đập chị nhiều lần. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 12/2018 đến nay. Chị xét thấy hạnh phúc vợ chồng đã thực sự tan vỡ, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với A Nguyễn Văn T để chị được tự do định đoạt cuộc sống riêng của mình.

Về con chung vợ chồng có 02 cháu là Nguyễn Văn Hoàng A (sinh ngày 12/5/2010) và Nguyễn Phan Hoàng L (sinh ngày 10/8/2011), hiện sống với cha. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được giao cho A T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu A, chị được nuôi cháu L và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vợ chồng chị tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa can thiệp.

Tại hồ sơ vụ án bị đơn Nguyễn Văn T trình bày:

A T đồng ý với lời trình bày của chị Phan Thị B về quan hệ hôn nhân của vợ chồng, A thừa nhận bản thân A có cờ bạc, tuy nhiên nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do chị B có quan hệ ngoại tình nên lúc nóng giận A có đánh chị B. Nay A xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, A vẫn thương vợ và không muốn gia đình tan vỡ làm ảnh hưởng đến con cái nên A không đồng ý ly hôn.

Về con chung A T thống nhất lời khai của chị B là vợ chồng có 02 cháu là Nguyễn Văn Hoàng A (sinh ngày 12/5/2010) và Nguyễn Phan Hoàng L (sinh ngày 10/8/2011), hiện sống với cha. Nay ly hôn A T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu A và cháu L cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, A T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vợ chồng A tự thỏa thuận về tài sản chung và vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa can thiệp.

Tại hồ sơ vụ án, cháu Nguyễn Văn Hoàng A có nguyện vọng sống với cha còn cháu Nguyễn Phan Hoàng L muốn sống với mẹ.

Ti phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Lộc phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn Phan Thị B thực hiện việc khởi kiện, cung cấp chứng cứ và thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt A T tại phiên tòa hôm nay là đúng quy định Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng A T chị B đã thật sự trầm trọng, tình yêu không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị B được ly hôn với A T theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Về con chung: xét yêu cầu nuôi con chung của chị B thì thấy phù hợp với nguyện vọng của cháu L và cháu A nên chấp nhận là đúng quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình. Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng không yêu cầu giải quyết nên không can thiệp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu hiện có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả trA luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Phan Thị B thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Đối với bị đơn Nguyễn Văn T vắng mặt, không tham gia phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét quan hệ hôn nhân gia chị Phan Thị B và A Nguyễn Văn T thì thấy A chị đã xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo quy định pháp luật. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi giải quyết vụ án.

Xét thực trạng quan hệ hôn nhân của A T chị B thì thấy sau khi kết hôn, trong cuộc sống giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị B là do A T thường xuyên cờ bạc, ghen tuông về gây gỗ, đánh đập chị. Còn theo A T giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn chủ yếu do A nghi ngờ chị B có quan hệ ngoại tình nên có đánh đập chị B. Tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa chị B cương quyết xin ly hôn. A T thừa nhận mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng có thời gian sống ly thân, không quan tâm chăm sóc nhau nhưng A vẫn còn thương yêu vợ và không muốn làm ảnh hưởng đến các con nên không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, Tòa án đã nhiều lần kiên trì hòa giải cho vợ chồng trở về đoàn tụ chung sống nhưng mâu thuẫn không được giải quyết, vợ chồng đã có thời gian sống ly thân, không quan tâm chăm sóc nhau nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị B, xử cho chị B được ly hôn với A T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Xét yêu cầu về nuôi con chung của A T và chị B thì thấy: Tại hồ sơ vụ án, cháu Nguyễn Văn Hoàng A (sinh ngày 12/5/2010) có nguyện vọng sống với A T còn cháu Nguyễn Phan Hoàng L (sinh ngày 10/8/2011) muốn sống với chị B. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị B, giao cháu A cho A T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục và giao cháu L cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

A T và chị B không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung: chị B và A T không có yêu cầu giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: chị B và A T khai không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[3] Về án phí: Buộc chị B phải chịu án phí kiện xin ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào các Điều 147, khoản 1 Điều 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình.

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị B:

- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên xử cho chị Phan Thị B được ly hôn với A Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Hoàng A (sinh ngày 12/5/2010) cho A Nguyễn Văn T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục và giao cháu Nguyễn Phan Hoàng L (sinh ngày 10/8/2011) cho chị Phan Thị B trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu L và A đủ 18 tuổi.

A T và chị B không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Các bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai có quyền cản trở. Khi có lý do chính đáng các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí kiện xin ly hôn số tiến chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) chị Phan Thị B phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) chị B đã nộp theo biên lai thu số 0003120 ngày 22/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Đại Lộc.

- Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2019/HNGĐ-ST ngày 17/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:131/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Lộc - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về