Bản án 129/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 129/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 137/2021/TLST-HS ngày 02/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HS ngày 07/6/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Sinh năm:1988; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn Mỹ Ân, xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Thanh (đã chết) ; Con bà: Trần Thị Lương; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3; Vợ: Nguyễn Thị Vấn (Đã ly hôn); Bị cáo có 01 con, sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không;

Danh chỉ bản số: 117, lập ngày 25/01/2021, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Bị cáo bị tạm gi , tạm giam từ ngày 10/01/2021, tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 10/01/2021, tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, tuần tra kiểm soát trên tuyến đường Mỹ Đình. Tại trước số nhà 162, đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm phát hiện Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn. êu cầu kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của T có 02 túi nilông màu trắng, kích thước 01x01(cm) quấn băng dính màu đỏ, bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ T khai nhận 02 gói nilông chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá, T mua về để sử dụng. Tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1 đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, tạm gi , niêm phong tang vật và đưa T về trụ sở Công an phường Mỹ Đình 1 để làm việc.

Vật chứng tạm gi , gồm có: 02 gói nilông màu trắng được quấn ngoài bằng băng dính màu đỏ, kích thước mỗi gói 01x01(cm), bên trong chứa hạt tinh thể màu trắng; 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng, gắn sim số: 0912.722.113, số Imei: 359311063846651.

Tại Kết luận giám định số: 584/KLGĐ-PC09 ngày 17/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 02 gói nilông bên ngoài bọc băng dính màu đỏ đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,426 gam./.” Quá trình điều tra xác định: Ngày 09/01/2021, qua mạng xã hội Telegram, Nguyễn Văn T quen biết 01 người phụ n sử dụng tài khoản Telegram tên “Link224”, sử dụng số điện thoại 0562.868.509 và giới thiệu tên là Ngọc Anh. T và Ngọc Anh hẹn rủ nhau mua ma túy đá và sử dụng ở khu vực Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 10/01/2021, T đi xe khách từ nhà tại xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đến khu vực quận Kiến An, thành phố Hải Phòng để mua 02 gói ma túy đá của 01 người đàn ông không quen biết (không rõ nhân thân, địa chỉ) với giá 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng). Mua xong, Thắng cất ma túy vào túi quần bên trái rồi tiếp tục bắt xe khách về Hà Nội. Khi ngồi trên xe, Thắng báo cho Ngọc Anh biết đã mua được ma túy, Ngọc Anh hẹn Thắng mang ma túy đến địa chỉ số 162 Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để c ng sử dụng, Thắng đồng ý. Khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, T đến điểm hẹn, khi đang đứng đợi Ngọc Anh ở trước số 162, đường Mỹ Đình thì bị tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1 kiểm tra hành chính, bắt quả tang, thu gi ma túy và đưa về trụ sở Công an phường Mỹ Đình 1 để điều tra làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đối với người bán ma túy cho Thắng tại khu vực quận Kiến An, thành phố Hải Phòng và đối tượng tên Ngọc Anh rủ Thắng mua ma túy về c ng sử dụng (như Thắng khai), quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều ra không có căn cứ xử lý.

Bản Cáo trạng số: 135/CT-VKSNTL ngày 01/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật quy định:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c)... Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm được trở về với gia đình và nuôi con còn nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo T và kết luận: Gi quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 18 tháng đến 24 tháng t ; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng tr : 01 (Một) phong bì niêm phong, bên trong đựng ma túy thu gi của bị cáo, có ch ký giáp lai của giám định viên, Nguyễn Văn T và Công an phường Mỹ Đình 1; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, gắn sim số: 0912.722.113, là phương tiện phạm tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ph hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, ph hợp với kết luận giám định c ng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 10/01/2021, tại số 162, đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng tr trái phép 0,426 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phát hiện, bắt quả tang c ng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt như đã viện dẫn, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, ph hợp với pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nh ng quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng tr trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng tr trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Gia đình bị cáo có công với Nước: Ông nội, bố bị cáo đều tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bố bị cáo là thương binh, có xác nhận của chính quyền địa phương. Bị cáo hiện đang nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự ; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo T là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng tr là 0,426 gam Methamphetamine, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt t có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T từ 18 tháng đến 24 tháng tù, là không ph hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Căn cứ vào mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nên áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T thấp hơn đề nghị của Kiểm sát viên, là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng tr : 01 (Một) phong bì niêm phong, bên trong đựng ma túy thu gi của Nguyễn Văn T, có ch ký giáp lai của giám định viên, Nguyễn Văn T và Công an phường Mỹ Đình 1; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, gắn sim số: 0912.722.113, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/01/2021.

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong, bên trong đựng ma túy thu gi của Nguyễn Văn T, có ch ký giáp lai của giám định viên, Nguyễn Văn T và Công an phường Mỹ Đình 1; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu trắng, gắn sim số: 0912.722.113 (Có đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 189, đề ngày 01/6/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:129/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về