Bản án 129/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 129/2020/HS-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 119/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2020/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thị V (tên gọi khác: không), sinh năm 1982 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà K, ngõ S, đường THĐ, phố M, phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn S và bà Trịnh Thị H; chồng: Trần Quang M (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

2. Điền Thị N (Tên gọi khác: không), sinh năm 1973 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn VT, xã NP, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điền Văn X và bà Vũ Thị Y; chồng: Nguyễn Văn H (đã ly hôn) và 02 con;

Tiền án: Bản án số 35/2019/HSST ngày 14/6/2019, Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh Ninh Bình xử phạt Điền Thị N 25.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 23/7/2019 Điền Thị N đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 28/7/2019 nộp 25.000.000 đồng tiền phạt.

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

3. Vũ Hồng D (Tên gọi khác: không), sinh năm 1984 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm T, xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân Ng và bà Lê Thị Q; vợ: Vũ Thị I và 02 con; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Bản án số 47/2015/HSST ngày 29/12/2015, Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh Ninh Bình xử phạt Vũ Hồng D 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng, phạt bổ sung 3.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Đến ngày 01/3/2016 Vũ Hồng D đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, tiền khấu trừ thu nhập, tiền án phí. Ngày 16/8/2016 chấp hành xong hình phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

4. Vũ Văn B (Tên gọi khác: không), sinh năm 1983 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm T, xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân T và bà Nguyễn Thị M; Vợ: Nguyễn Thị L và 01 con; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 24/4/2016, Công an huyện YK, tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính Vũ Văn B 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 20/3/2017 Vũ Văn B đã nộp xong tiền phạt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

5. Đinh Xuân T (Tên gọi khác: không), sinh năm 1995 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn XD, xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn T và bà Đoàn Thị V; vợ: J và 01 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

6. Trịnh Văn Th (Tên gọi khác: không), sinh năm 1988 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm A, xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn T và bà Nguyễn Thị L; vợ: Lã Thị H và 03 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. “Có mặt”.

Người làm chứng: Anh Trần Quang M. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Thị V có mối quan hệ quen biết với Điền Thị N, Trịnh Văn Th, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/6/2020, V đi xe taxi xuống khu vực ngã ba thông xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình ngồi uống nước với N, B, D, Th, T tại một quán nước chè. Khoảng 22 giờ cùng ngày, V nảy sinh ý định đánh bạc nên rủ cả hội về nhà mình ở số nhà K, phố M, phường NK, thành phố Ninh Bình để đánh bạc, cả hội đồng ý và thuê taxi của một người đàn ông không quen biết đi về nhà V. Khi đi đến khu vực đường LHP, phường ĐT, thành phố Ninh Bình thì V xuống xe rồi vào một quán tạp hóa ven đường để mua 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân mục đích để cùng N, B, D, Th, T sử dụng để đánh bạc. Khoảng 11 giờ cùng ngày, cả hội về đến nhà V và vào trong nhà thì V khóa cửa bên trong lại. V, N, Th, T, D, B ngồi dưới nền nhà phòng khách tầng 1 nhà V rồi thống nhất đánh bạc dưới hình thức đánh liêng sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân V đã mua để đánh bạc. Các đối tượng quy ước hình thức chơi như sau: Liêng là ba quân bài liên tiếp nhau như 6 - 7 - 8; sáp là ba quân bài giống nhau như 6 - 6 - 6; bộ đội là ba quân bài đầu người như Q - Q - K; bắt đầu ván bài thì mỗi người chơi phải đặt số tiền gà ra giữa chiếu là 10.000 đồng, sau đó mỗi người chơi được chia ba lá bài nếu ai thấy bài của mình điểm cao thì sẽ theo hoặc tố, mỗi lần tố tối đa là 100.000 đồng, sau khi đặt cược ai có điểm hoặc giá trị lá bài cao hơn sẽ thắng, người thắng mỗi ván sẽ được nhận tất cả số tiền gà và số tiền người chơi đã đặt cược. Trước khi đánh bạc, V có 880.000 đồng; N có 1.080.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc; Th có 5.000.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc, Th lấy ra trước 2.000.000 đồng còn 3.000.000 đồng Th cất trong người; D có 4.000.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc; T có 8.000.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc, T bỏ ra trước 1.000.000 đồng, còn 7.000.000 đồng T cất trong người; B có 4.550.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc, B bỏ ra trước 550.000 đồng, còn 4.000.000 đồng B cất trong người. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 19/6/2020, Công an phường NK, thành phố Ninh Bình nhận được tin báo của anh Trần Quang M sinh năm 1980 trú tại Số nhà K, ngõ S, đường THĐ, phố M, phường NK, thành phố Ninh Bình, là chồng cũ của Hoàng Thị V trình báo tại nhà V có biểu hiện đánh bạc ăn tiền. Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 19/6/2020, Công an phường NK, thành phố Ninh Bình cùng anh M xuống nhà V để kiểm tra, anh M vào gõ cửa, lúc này V, N, D, T, Th, B đang đánh bạc với nhau sợ bị phát hiện bắt giữ nên đã cất giấu toàn bộ số tiền dưới chiếu bạc vào trong người rồi lẩn trốn, trong đó N trốn trong phòng bếp tầng 1 còn B, D, T, Th trốn trên tầng 3, còn V đi ra mở cửa. Tổ công tác vào trong nhà kiểm tra thì phát hiện tại nền nhà phòng khách tầng 1 có 01 bộ bài 52 quân được chia làm 6 mô, mỗi mô 03 lá bài và có nọc ở giữa chiếu, Tổ công tác phát hiện N, B, D, T, Th đang trốn tại các địa điểm trên nên yêu cầu xuống làm việc. Tại chỗ V, N, B, D, T, Th khai nhận đang sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân đánh liêng ăn tiền với nhau tại nền nhà phòng khách tầng 1 nhà V đồng thời V, N, B, D, T, Th tự giác giao nộp số tiền 5.510.000 đồng sử dụng để đánh bạc cho tổ công tác, trong đó N giao nộp 200.000 đồng; B giao nộp 300.000 đồng; V giao nộp 400.000 đồng; D giao nộp 1.720.000 đồng; Th giao nộp 1.150.000 đồng; T giao nộp 1.740.000 đồng. Ngoài ra tổ công tác thu giữ trong người B số tiền 4.000.000 đồng; thu trong người D số tiền 4.000.000 đồng; thu trong người Th số tiền 3.000.000 đồng; thu trong người T số tiền 7.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền bị thu giữ V, N, B, D, T, Th khai nhận sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Tổ công tác đã đưa 6 đối tượng cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở Công an phường NK, thành phố Ninh Bình để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và bàn giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình xử lý theo quy định.

Quá trình điều tra bị can Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra chứng minh số tiền các bị can bị thu giữ sử dụng vào việc đánh bạc là 23.510.000 đồng, gồm: Thu của V số tiền 400.000 đồng; thu của N số tiền 200.000 đồng; thu của B số tiền 4.300.000 đồng; thu của D số tiền 5.720.000 đồng; thu của T số tiền 8.740.000 đồng; thu của Th số tiền 4.150.000 đồng.

Đối với số tiền 23.510.000 đồng và 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân thu giữ của các bị can sử dụng để đánh bạc được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình quản lý để giải quyết cùng vụ án.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKS ngày 29/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th về tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th phạm tội Đánh bạc.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị V từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Hoàng Thị V cho Ủy ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường NK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ từ 5% đến 6% thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đến 12.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Điền Thị N từ 03 đến 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ 06 ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020). Phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đến 12.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Hồng D từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Vũ Hồng D cho Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ từ 5% đến 6% thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đến 12.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn B từ 09 đến 12 cải tạo không giam giữ, được trừ 06 ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Vũ Văn B cho Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ từ 5% đến 6% thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đến 12.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Đinh Xuân T từ 22.000.000 đến 25.000.000 đồng.

+ Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Th từ 20.000.000 đến 22.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 23.510.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, các bị cáo không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố; lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 19/6/2020 tại nhà của Hoàng Thị V ở Số nhà K, ngõ S, đường THĐ, phố M, phường NK, thành phố Ninh Bình. Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th có hành vi đánh bạc dưới hình thức “Đánh liêng” với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 23.510.000 đồng bị Tổ công tác công an phường NK, thành phố Ninh Bình phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th xâm hại đến trật tự công cộng là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cả sáu bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ đánh bạc (đánh liêng) được thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm nhưng vì lợi nhuận, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, chứng cứ buộc tội các bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi đánh bạc với tổng số tiền 23.510.000 đồng của các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự Ngoài xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Từ việc đánh bạc đã dẫn đến tiêu tán tài sản, kiêt quệ kinh tế của nhiều cá nhân và gia đình. Để bảo vệ trật tự xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, đưa ra xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Hoàng Thị V, Vũ Văn B, Vũ Hồng D, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo Điền Thị N đã có tiền án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo Hoàng Thị V, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Điền Thị N quá trình điều tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Các bị cáo Điền Thị N, Vũ Văn B, Vũ Hồng D gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương; bị cáo Điền Thị N có bà nội là người có công với cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự

- Về tính chất đồng phạm: Trong vụ án có nhiều bị cáo tham gia nhưng không mang tính tổ chức vì các bị cáo tình cờ gặp nhau, rủ nhau đánh bạc là bột phát, đồng phạm tính chất giản đơn. Về vai trò của từng bị cáo cụ thể như sau: Bị cáo Hoàng Thị V là người khởi xướng rủ các bị cáo khác tham gia đánh bạc đồng thời cũng là người chuẩn bị công cụ, địa điểm để đánh bạc. Do đó, bị cáo có vai trò đầu vụ. Bị cáo Điền Thị N là người có tiền án nên có vai trò sau bị cáo V; Bị cáo Vũ Văn B và Vũ Hồng D là người có nhân thân xấu có vai trò thứ 3; Bị cáo Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th có nhân thân tốt có vai trò sau các bị cáo V, N, D, B.

- Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cả 6 bị cáo tuy phạm tội ít nghiêm trọng nhưng bị cáo N là người có tiền án về tội đánh bạc cần áp dụng hình phạt chính là phạt tù đối với bị cáo N; các bị cáo Hoàng Thị V là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ và địa điểm phạm tội; bị cáo Vũ Văn B, Vũ Hồng D là người có nhân thân xấu nên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với ba bị cáo này; Bị cáo Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th không có tiền án, tiền sự do đó áp dụng hình phạt tiền để xử phạt các bị cáo là phù hợp.

Bị cáo Điền Thị V có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Văn B, Vũ Hồng D theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; Đối với bị cáo Th, bị cáo Tdo đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[3] Về xử lý vật chứng:

- 01 bộ tú lơ khơ 52 quân là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu hủy.

- Số 23.510.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ:

Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Thị V và bị cáo Vũ Văn B.

Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Điền Thị N.

Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Hồng D.

Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đinh Xuân T, bị cáo Trịnh Văn Th.

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th phạm tội Đánh bạc.

Xử phạt:

- Bị cáo Hoàng Thị V 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020) quy đổi thành 18 (Mười tám) ngày cải tạo không giam giữ; còn phải thi hành 17(Mười bảy) tháng 12 (Mười hai) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Hoàng Thị V cho Ủy ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường NK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo để sung ngân sách Nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Điền Thị N từ 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020). Phạt bổ sung bị cáo Điền Thị N 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Vũ Hồng D 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ (Từ ngày 19/6/2020 đến ngày 24/6/2020) quy đổi thành 18 (Mười tám) ngày cải tạo không giam giữ; còn phải thi hành 11(Mười một) tháng 12 (Mười hai) ngày cải tạo không giam giữ.Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Vũ Hồng D cho Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo để sung ngân sách Nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Vũ Văn B 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ quy đổi thành 18 (Mười tám) ngày cải tạo không giam giữ; còn phải thi hành 08 (Tám) tháng 12 (Mười hai) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Vũ Văn B cho Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã KC, huyện YK trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo để sung ngân sách Nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Đinh Xuân T từ 22.000.000 (Hai mươi hai triệu) đồng.

- Bị cáo Trịnh Văn Th 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ tú lơ khơ 52 quân các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 23.510.000 (Hai mươi ba triệu năm trăm mười nghìn) đồng các bị cáo dùng để đánh bạc.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/8/2020 và ủy nhiệm chi lập ngày 07/8/2020).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Hoàng Thị V, Điền Thị N, Vũ Hồng D, Vũ Văn B, Đinh Xuân T, Trịnh Văn Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (28/8/2020).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:129/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về