TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 129/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2020/TLST-HS, ngày 09 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2020/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 12 năm 2020; Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án hình sự số 109/2020/TB ngày 22 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn K, sinh ngày 02/9/1979;
Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tổ 16, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Giang;
Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Kim T, sinh năm 1956 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1956; anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là thứ hai; vợ: Đặng Thị T (đã ly hôn); con: Có 01 con, sinh năm 2006;
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
-Ngày 16/6/2009, bị đưa vào cơ sở chữa bệnh, cai nghiện tại Công trường 06 huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.
- Bản án số 60/2011/HSST ngày 29/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong bản án ngày 07/3/2013).
- Bản án số 80/2013/HSST ngày 31/10/2013 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 03 năm tù về tội Hiếp dâm (chấp hành xong bản án ngày 16/7/2016).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2020; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T.
(Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 11/9/2020, Nguyễn Văn K, sinh năm 1979; trú tại: Tổ 16, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Giang là người sử dụng ma túy, một mình điều khiển xe mô tô không biển kiểm soát (xe mượn của Nguyễn Xuân T, em trai K); đi từ thôn Hòa Bình, xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang đến khu vực cây xăng Kim Phú thuộc xã K, thành phố T mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại khu vực gần cây xăng Kim Phú, K mua được 01 gói Heroine được bọc ngoài bằng hai lớp giấy màu cam của một người đàn ông không xác định được tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy K cất giấu trong người rồi điều khiển xe đến khu vực cầu chui thuộc tổ 8, phường H, thành phố T thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Tuyên Quang đang làm nhiệm vụ phát hiện, yêu cầu K về Công an thành phố T lập biên bản phạm tội quả tang vào hồi 18 giờ 40 phút cùng ngày; thu giữ 01 gói Heroine.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với K, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể. K khai nhận ngày 10/9/2020 đã sử dụng ma túy.
Tại Kết luận giám định số 710/GĐKTHS ngày 14/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Nguyễn Văn K) gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,176g (Không phẩy một bảy sáu gam).
Tại Cáo trạng số 01/CT-VKSTP, ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố Nguyễn Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 01 năm 02 tháng từ đến 01 năm 05 tháng tù. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phần xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xác định kết luận giám định đối với số Heroine mà Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo là hoàn toàn khách quan và đúng, bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Viện kiểm sát; khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình là sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa; căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ hoàn toàn phù hợp và đủ cở sở kết luận: Hồi 18 giờ 40 phút ngày 11/9/2020, tại khu vực tổ 8, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn K, sinh năm 1979; trú tại tổ 16, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Giang, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,176g (Không phẩy một bảy sáu gam) Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi tàng trữ 0.176 gam Heroine để sử dụng mà bị cáo đã thực hiện phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng là hoàn toàn đúng người, đúng tội, có căn cứ.
Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện gây mất trật tự trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án, xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà Nước, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, có thể là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức, có trình độ học vấn, hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy để sử dụng là hành vi trái với các quy định của pháp luật. Bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính bắt buộc chữa bệnh, cai nghiện; 01 lần bị Tòa án xử phạt tù giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và 01 lần bị Tòa án xử phạt tù giam về hành vi hiếp dâm. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không có ý thức rèn luyện bản thân đoạn tuyệt với ma túy, để trở thành người công dân có ích. Mà bị cáo vẫn tiếp tục tái nghiện, để thảo mãn cơn nghiện, bị cáo bất chấp các quy định của pháp luật tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện hoàn toàn do lỗi cố ý, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Nên cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, thể hiện ý thức ăn năn hối cải của bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính công bằng của pháp luật đối với người phạm tội.
Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị; không có việc làm, thu nhập ổn định; tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, không vì mục đích vụ lợi. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã tạm giữ của bị cáo 01 phong bì niêm phong, bên trong có chứa 0,126 gam Heroine (mẫu vật còn lại sau giám định); tạm giữ 01 xe mô tô không có biển kiểm soát, không có tem mác, không rõ nhãn hiệu, qua xác minh làm rõ là xe của anh Nguyễn Xuân T, em trai K.
Đối với số Heroine đã thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.
Đối với 01 xe mô tô tạm giữ của bị cáo Cơ quan điều tra đã làm rõ và trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Xuân T, việc trả lại xe mô tô cho anh Thành là đúng với quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 10/9/2020 của bị cáo, Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 002480 ngày 24/9/2020, hình thức xử phạt: Cảnh cáo.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.
2. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa Heroine đã thu giữ của bị cáo.
(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T ngày 09/12/2020).
3. Về án phí và quyền kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 129/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 129/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về