Bản án 129/2020/HS-PT ngày 31/08/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 129/2020/HS-PT NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 116/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Họ và tên bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Quốc H, sinh năm 1987 tại tỉnh Quảng Nam; địa chỉ thường trú: tổ 15, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tr và bà Nguyễn Thị Th; tiền sự: không; tiền án: ngày 21/9/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 113/2012/HSPT; ngày 17/9/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2015/HSST; bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/6/2017 cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Dương; địa chỉ thường trú: số 20/2, khu phố B, phường Th, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Quách Thị Tuyết Ng; bị cáo có vợ là Dương Ngọc A, bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2017 đến ngày 01/6/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn (bảo lĩnh) và tại ngoại cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn 04 bị cáo, 02 bị hại, 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn B mở tiệm game “Long Bay” ở địa chỉ số 415 đường Cách Mạng Tháng Tám, khu 6, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương và thuê Trần Quốc Tr, Nguyễn Văn T làm nhiệm vụ giữ xe còn Trần Quốc H phụ giúp B trông coi quản lý tiệm game.

Trần Quốc H mở tiệm game “Sugon ska” ở số 5/10 đường Bùi Hữu Nghĩa, khu phố Bình Đức 2, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương và giao cho Võ Văn B và Trần Quốc D quản lý.

Nguyễn Văn T là nhân viên làm thuê cho Bảo tại tiệm game “Long Bay” ở số 415 đường Cách Mạng Tháng Tám, khu 6, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương từ ngày 24/5/2017. Công việc của T là nạp điểm, thu tiền và đổi điểm thành tiền thắng thua cho các con bạc đến chơi game tại đây. Tuy hoạt động dưới hình thức trò chơi điện tử, nhưng thực tế, B và H thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc thắng thua bằng tiền bằng cách quy định đổi điểm thành tiền để thắng thua với con bạc, cụ thể: 1.000 điểm đổi được số tiền tương đương là 100.000 đồng.

Ngày 30/5/2017, do phải đi công việc nên H và Tr kiểm tra (test) số điểm trên máy chơi game, mã số 6980.0262, có số điểm là âm 1.045.519 điểm để T biết rồi giao cho T coi giữ tiệm và đưa thẻ từ (dùng để quẹt (nạp) lên điểm và đổi điểm thành tiền) cho T quản lý.

Do tiệm không có khách đến chơi nên T sử dụng thẻ từ do H và Tr giao tự quẹt (nạp) lên điểm chơi game vào vị Tr người chơi số 6 của máy chơi game mã số: 6980.0262. T quẹt (nạp) thẻ để lên điểm lần đầu, số điểm 5.000 điểm nên số điểm trong máy tăng lên là âm 1.050.519 điểm để chơi trò chơi đặt cược thú thì bị thua nên số điểm từ âm 1.050.519 điểm trở về 0 điểm. Sau đó, T tiếp tục quẹt (nạp) thẻ lên điểm để chơi trò chơi đặt cược thú nhiều lần, mỗi lần 5.000 điểm. T chơi trò đặt cược thú từ khoảng 14 giờ đến khoảng 18 giờ cùng ngày 30/5/2017 thì T thua với số điểm là 204.481 điểm.

Đốn khoảng 19 giờ cùng ngày 30/5/2017, khi H và Tr về đến Tiệm game “Long Bay” và kiểm tra các máy chơi game thì phát hiện ở vị Tr số 06 của máy chơi game mã số 6980.0262 có số điểm do máy ăn (thắng) là 204.481 điểm nên hỏi T số điểm này do ai chơi thua thì T nói do T chơi thua. Lúc này, H gọi điện kêu Bảo đến tiệm game “Long Bay” cùng Tr kiểm tra, xác định số điểm mà T chơi thua là 1.250.000 điểm (204.481 điểm + 1.045.519 điểm).

Theo quy định của B, H và Tr tại tiệm game “Long Bay” thì cứ 1.000 điểm tương ứng với 100.000 đồng nên số điểm mà T thua là 1.250.000 điểm, tương ứng với số tiền là 125.000.000 đồng nên H và Tr đóng cửa tiệm. Lúc này, H gọi điện báo cho Ngô Văn B, Trần Quốc D, Võ Văn B và Nguyễn Tấn Đ đến tiệm game “Long Bay” ở số 415 đường Cách Mạng Tháng Tám, khu 6, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương cùng thay phiên canh giữ T và buộc T viết giấy nợ.

Khoảng 30 phút sau thì Bình, Dũng, Đ và Bảo đến. Khi gặp T, B liền dùng tay, chân đánh T, Tr sử dụng điện thoại di động đánh vào mặt T và bắt buộc T viết giấy vay nợ 125.000.000 đồng theo ý của Đ (Đ đọc cho T viết nội dung theo ý của Đ) và H ký tên là người cho vay tiền, B ký tên là người chứng kiến sự việc. Sau đó, H yêu cầu T gọi điện thoại gặp chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1988, ngụ tại xã T, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (chị Thu là chị ruột của T) kêu chị Th đem 125.000.000 đồng đến chuộc T.

H, Bảo, Tr, Bình, Đ và Dũng bắt, giữ T đến khoảng 23 giờ cùng ngày 30/5/2017 thì cả nhóm chở T đến tiệm game “Sugon Ska” của H tiếp tục giữ T để chờ gia đình T đem tiền đến chuộc. Lúc này, Tr liên tục đưa điện thoại di động cho T yêu cầu T điện thoại, nhắn tin cho gia đình phải đem tiền xuống chuộc nếu không thực hiện theo yêu cầu sẽ tiếp tục bị đánh và bị đưa đến Campuchia để bán thận nên chị Th hoảng sợ, báo cho gia đình biết và chuẩn bị 125.000.000 đồng để chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1990, ngụ tại xã T, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (chị Th là chị ruột của T) đem tiền đến chuộc T.

Đến sáng ngày 31/5/2017, cả nhóm chở T đến tiệm game “Long Bay” tiếp tục giữ T và đưa điện thoại di động cho T, yêu cầu T điện thoại, nhắn tin cho gia đình phải đem tiền đến tiệm game “Sugon Ska” để trả và chuộc T. Do chiều ngày 31/5/2017, gia đình T chưa chuẩn bị đủ tiền nên cả nhóm chở T đến tiệm game “Sugon Ska” để tiếp tục giữ T để chờ gia đình T đem tiền đến chuộc T.

Ngày 01/6/2017, cả nhóm chở T đi từ Tiệm game “Sugon Ska” đến quán cà phê Boy’s (cách khoảng 300m) để giữ và chờ gia đình T đem tiền đến trả và chuộc T. Để uy hiếp tinh thần của gia đình T, H chuẩn bị sẵn 05 (năm) dao dài 50 cm; 06 (sáu) ống tuýp sắt vuông; 02 (hai) ống tuýp sắt tròn; 01 (một) cây kéo cắt; 01 (một) cây kìm nhỏ và để tại tiệm game “Sugon Ska”.

Khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày 01/6/2017, khi chị Nguyễn Thị Th đem tiền đến và yêu cầu được gặp mặt T. Lúc này, B điều khiển xe mô tô, biển số 93C1-097.16, hiệu SH, màu đỏ chở T, còn B điều khiển xe mô tô, biển số 66B 1-143.75, hiệu Suzuki - ViVa, màu xanh chạy từ quán cà phê Boy’s đến tiệm game “Sugon Ska”. Sau khi gặp được T, chị Th giao 125.000.000 đồng cho nhóm của H. Khi H và cả nhóm đang đếm tiền thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phát hiện, bắt quả tang, thu giữ: Tiền Việt Nam 125.000.000 đồng; 05 (năm) dao dài 50 cm; 06 (sáu) ống tuýp sắt vuông; 02 (hai) ống tuýp sắt tròn; 01 (một) cây kéo cắt; 01 (một) cây kìm nhỏ; 01 (một) xe mô tô, hiệu Suzuki Viva 115Fi, màu xanh, biển số 66B1. 143.75; 01 (một) xe mô xe nhãn hiệu SH, màu đỏ, biển số 93C1- 097.16 và Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Thị Ly Ly; 01 (một) điện thoại di động, hiệu Mastel, màu đỏ, có số thuê bao 0934.163.756; 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân tên Ngô Văn B; 01 (một) điện thoại di động, hiệu Microsoft, màu đen, có số thuê bao 0126.921.3551 của Trần Quốc H; 01 (một) điện thoại di động, hiệu Samsung, có số thuê bao 01687.542.110, 01 (một) điện thoại di động, hiệu Nokia, model 105, 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân tên Trần Quốc Tr; 01 (một) điện thoại di động, hiệu Nokia, 1202, màu đen, có số thuê bao 0962.684.849; 01 (một) tờ giấy mượn tiền có nội dung số tiền mượn 125.000.000 đồng; 01 (một) tờ giấy tập học sinh thể hiện nội dung xin lỗi của Nguyễn Văn T.

Quá trình điều tra, ngày 06/9/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả 125.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị Th theo Quyết định xử lý vật chứng số 92 ngày 06/9/2017. Hiện tại, chị Nguyễn Thị Th không có yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu SH, màu đỏ, biển số 93C1- 097.16 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe đã thu giữ của Ngô Văn B. Quá trình điều tra, xác định: Đây là xe của bà Trần Thị Ly L, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp Sóc Quả, xã Tân Hưng, huyện H, tỉnh Bình Phước (bà L là vợ của Ngô Văn B). Việc Bảo sử dụng xe mô tô nói trên thực hiện hành vi phạm tội bà Ly không biết. Ngày 20/8/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả xe mô tô nhãn hiệu SH màu đỏ biển số 93C1- 097.16 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe cho bà Trần Thị Ly L theo Quyết định xử lý vật chứng số 71 ngày 20/8/2017. Hiện tại bà Trần Thị Ly L không có yêu cầu gì đối với Ngô Văn B nên không xem xét, giải quyết.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Suzuki - ViVa màu xanh biển số 66B1- 143.75 đã thu giữ của Võ Văn B. Quá trình điều tra, xác định: Đây là xe của ông Võ Minh A, sinh năm 1978. Địa chỉ: ấp 1, xã M, huyện Th Bình, tỉnh Đồng Tháp (ông A là cha ruột của Võ Văn B). Việc Bình sử dụng xe mô tô nói trên thực hiện hành vi phạm tội, ông A không biết. Ngày 06/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả xe mô tô, nhãn hiệu Suzuki - ViVa màu xanh biển số 66B1- 143.75 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe cho ông Võ Minh A theo Quyết định xử lý vật chứng số 87, ngày 06/9/2017. Hiện tại, ông An không có yêu cầu gì đối với Võ Văn B nên không xem xét, giải quyết.

Đối với 05 (năm) dao dài 50 cm; 06 (sáu) ống tuýp sắt vuông; 02 (hai) ống tuýp sắt tròn; 01 (một) cây kéo cắt; 01 (một) cây kìm. Đây là hung khí sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) máy chơi game và 01 (một) thẻ nạp điểm game là công cụ thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Micnosott, màu đen có số thuê bao 01269.213.551; 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel màu đỏ có số thuê bao 0934.163.756; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đen có số thuê bao 0982.237.357; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số thuê bao 01654.746.097; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số thuê bao 0969.212.406; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 1202, màu đen, có số thuê bao 0962.684.849; 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobiistar, màu đen vàng, có số thuê bao 01288.352.625 đã thu giữ của Trần Quốc H, Ngô Văn B, Trần Quốc Tr, Võ Văn B, Nguyễn Tấn Đ, Trần Quốc D là phương tiện dùng thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

Tại Bản án bình sự sơ thẩm số 88/2020/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ phạm các tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Giữ người trái pháp luật”.

Về hình phạt:

1. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 135; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Trân Quốc H 04 (bốn) năm tù.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 123; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Trần Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009: Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Trần Quốc H phải chấp hành hình phạt chung 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 01/6/2017.

2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 135; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 03 (ba) năm tù.

- Áp dụng điểm a khoán 2 Điều 123; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 02 (hai) năm tù.

- Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009: Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giam trước đây từ ngày 01/6/2017 đến ngày 01/6/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo Ngô Văn B 06 (sáu) năm tù; các bị cáo Trần Quốc Tr, Võ Văn B, Trần Quốc D mỗi bị cáo 05 (năm) năm tù cùng về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Giữ người trái pháp luật”, tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/6/2020, bị cáo Nguyễn Tấn Đ có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/6/2020, bị cáo Trần Quốc H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Các bị cáo Trần Quốc H, Nguyễn Tấn Đ và đồng bọn thực hiện hành vi bắt giữ Nguyễn Văn T đánh T, đe dọa dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người thân của T là bà Nguyễn Thị Th buộc giao số tiền 125.000.000 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Giữ người trái pháp luật” là có căn cứ và đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo là rất manh động và nguy hiểm cho xã hội, gây bức xúc dư luận. Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng cho các bị cáo là phù hợp, không nặng. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về tiếp tục lao động chăm lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của các bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị hại Nguyễn Văn T và bị cáo Trần Quốc Tr là nhân viên làm việc tại tiệm game “Long Bay” do Ngô Văn B làm chủ. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 30/5/2017 Tr giao cho T thẻ từ và số tiền 10.000.000 đồng để T cài điểm và đổi tiền cho khách đến chơi Game, do không có khách đến chơi nên T đã tự ý cài điểm lên để chơi Game (bắn cá, đập thú) và thua số điểm 1.250.000 điểm tương đương số tiền 125.000.000 đồng nên H và Tr đóng cửa tiệm, gọi điện báo cho Ngô Văn B, Trần Quốc D, Võ Văn B và Nguyễn Tấn Đ đến Tiệm game “Long Bay” giữ, khống chế, đe dọa, dùng vũ lực (đánh, đá vào mặt T) buộc Nguyễn Văn T viết giấy nợ số tiền 125.000.000 đồng, gọi điện thoại buộc gia đình Nguyễn Văn T phải trả 125.000.000 đồng nếu không trả sẽ đưa Nguyễn Văn T đến Campuchia để bán thận. Các bị cáo thay phiên nhau canh giữ T từ 23 giờ ngày 30/5/2017 và liên tục gọi điện thoại uy hiếp tinh thần của bà Nguyễn Thị Th để chiếm đoạt số tiền 125.000.000 đồng, đến khoảng 11 giờ 45 phút ngày 01/6/2017 khi bị cáo H đang nhận và đếm số tiền 125.000.000 đồng do bà Th giao tại tiệm game SugonKa thì bị bắt giữ.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu đối với tài sản của người khác, xâm hại đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ. Về nhận thức, các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thực hiện việc giữ người ép trả tiền trong việc đánh bạc là trái pháp luật nhưng vì động cơ vụ lợi mà các bị cáo đã bất chấp, liều lĩnh thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có tổ chức sắp xếp nơi giữ, phân công người canh giữ bị hại để uy hiếp tinh thần buộc bị hại viết giấy nợ và buộc gia đình bị hại đem tiền đến chuộc. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Giữ người trái pháp luật” theo quy định tại các điểm c, d khoản 2 Điều 135; điểm a khoản 2 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Hành vi của các bị cáo gây bức xúc dư luận, chiếm đoạt với số tiền lớn, bị cáo H phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo là phù hợp, không nặng và đã có xem xét đầy đủ đối với các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo. Do đó, kháng cáo của các bị cáo H và Đ là không có cơ sở chấp nhận.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thương vụ Quốc hội: do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ về việc giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

1.1. Áp dụng điểm c, d khoán 2 Điều 135; điểm a khoản 2 Điều 123; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điểm g khoán 1 Điều 48; Điều 50; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009,

Xử phạt bị cáo Trần Quốc H 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giữ người trái pháp luật”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Trần Quốc H phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 01/6/2017.

1.2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 135; điểm a khoản 2 Điều 123; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 50; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009,

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Giữ người trái pháp luật”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 01/6/2017 đến ngày 01/6/2018.

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Các bị cáo Trần Quốc H và Nguyễn Tấn Đ phải nộp mỗi bị cáo 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2020/HS-PT ngày 31/08/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:129/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về