Bản án 129/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 129/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa 10/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Hoàng Mỹ L, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1999 tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ..., thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; nơi ở: ..., thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng VănB và bà Ngô Thị Q; có chồng là Nguyễn Mạnh T; có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: ngày 29/10/2018, bị Công an phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã nộp phạt ngày 01/11/2018; hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thủy Nguyên, thành phố hải Phòng trong vụ án khác; có mặt.

* Bị hại: Bà Đinh Thị T, sinh năm: 1952; địa chỉ: …, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Hoàng Thị L, sinh năm: 1957; địa chỉ: …, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

* Những người làm chứng:

1) Chị Nguyễn Thị Thuỳ T, sinh năm: 1998; địa chỉ: …, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2) Anh Nguyễn Mạnh T sinh năm: 1994; địa chỉ: …, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

3) Anh Nguyễn Minh T, sinh năm: 1983; địa chỉ: …, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

4) Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1969; địa chỉ: …, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ ngày 25/6/2019, Hoàng Mỹ L một mình điều khiển xe mô tô Honda Vision biển kiểm soát 14Z1-418.55, đi đến khu vực phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tìm nhà dân nào sơ hở thì vào trộm cắp tài sản. Khi đi ngang qua nhà bà Đinh Thị T ở số nhà 278, tổ 5, khu 4, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí. Linh thấy trước cửa nhà bà Thắng có treo biển bán thẻ điện thoại, phòng khách không có ai, nên nảy sinh ý định vào nhà bà T để trộm cắp tài sản. L đỗ xe lại, dựng xe rồi đi vào nhà bà T. Linh thấy trên kệ ti vi ở phòng khách có một chiếc túi xách bằng vải bạt hình vuông, kích thước khoảng (35 x 35)cm. L mở túi thấy trong túi có nhiều thẻ nạp điện thoại mạng Viettel, Mobifone, Vinaphone với các mệnh giá khác nhau chưa sử dụng và một tập tiền lẻ mệnh giá từ 1.000 đến 20.000 đồng, tổng số tiền lẻ là 205.000đồng. L lấy túi xách rồi đi ra xe, điều khiển xe đi về nhà. Ngay sau khi L vừa rời đi, bà T từ trong nhà đi ra phát hiện bị mất túi đựng thẻ điện thoại và tiền nên đã đến Cơ quan công an trình báo.

Đến khoảng 17 giờ ngày 26/6/2019, Linh mang toàn bộ 454 chiếc thẻ nạp điện thoại mạng Viettel, Mobifone, Vinaphone trộm cắp của bà T đến cửa hàng tạp hóa của bà Hoàng Thị L ở thôn Lâm Xá 1, xã Hồng Thái Đông, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. L nói với bà L số thẻ điện thoại là của Linh muốn bán. L, bà L và chị Nguyễn Thị Thùy T (con gái bà L) kiểm đếm tổng giá trị số thẻ điện thoại là 25.260.000 đồng. Bà L đồng ý mua số thẻ nạp điện thoại trên của L với giá 22.000.000đồng và trả trước cho L 5.000.000đồng, còn nợ lại 17.000.000đồng, hẹn khoảng 01 tuần sau sẽ trả hết tiền. Sau đó, L đã tiêu xài hết số tiền 5.205.000 đồng, còn chiếc túi xách, trên đường từ nhà bà L về L đã vứt đi. Đến trưa ngày 28/6/2019, lo sợ hành vi phạm tội bị phát hiện, L đã đến Công an phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí tự thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 35a ngày 16/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí kết luận: Tổng giá trị tài sản cần định giá (454 thẻ nạp điện thoại) theo giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá là 25.260.000đồng.

Cơ quan điều tra đã thu giữ 454 chiếc thẻ nạp điện thoại trị giá 25.260.000đồng L trộm cắp và trả lại cho bị hại. Số tiền 205.000 đồng và chiếc túi xách, bà T không yêu cầu L bồi thường. Bà T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu gì khác.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp và việc truy tố, đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo khai có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo cũng đã trả lại số tiền 5.000.000 đồng cho bà Hoàng Thị L - người đã bỏ tiền ra mua số thẻ điện thoại mà không biết đó là tài sản do bị cáo trộm cắp được mà có.

Quá trình điều tra, những người làm chứng cũng có lời khai về toàn bộ nội dung sự việc đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 118/CT-VKSUB-QN ngày 01 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Hoàng Mỹ L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; các điểm i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Mỹ L từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Những tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội phạm:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với đoạn video ghi lại từ camera giám sát nhà bà T, tài sản trộm cắp và Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng, cùng những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 25/6/2019, tại nhà bà Đinh Thị T tại tổ 5, khu 4, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Hoàng Mỹ L có hành vi trộm cắp 01 chiếc túi xách trong túi có 454 chiếc thẻ nạp điện thoại mạng Viettel, Mobifone, Vinaphone trị giá 25.260.000 đồng và số tiền 205.000 đồng của bà Thắng. Tổng giá trị tài sản L chiếm đoạt là 25.465.000 đồng.

[2.2] Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[2.3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an ở địa phương. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố các bị cáo là có cơ sở pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh

[2.4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an tự thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Đối với hình phạt chính: Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hậu quả của tội phạm đã được khắc phục ngay. Vì vậy, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp trong khung hình phạt, cho bị cáo có cơ hội cải tạo, giáo dục, làm người có ích cho gia đình và xã hội, đáp ứng được mục đích của hình phạt.

[3.2] Đối với hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, Hội đồng xét xử không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về việc bồi thường thiệt hại: Giai đoạn điều tra, hậu quả của tội phạm đã được khắc phục, các bên không có yêu cầu gì. Xét thấy: đây là quan hệ dân sự, các bên tự nguyện cam kết, thỏa thuận không trái với pháp luật và đạo đức xã hội, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí đã xử lý, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Đối với bà Hoàng Thị L là người đã mua lại số thẻ nạp điện thoại của L, nhưng không biết số tài sản trên do L trộm cắp mà có, nên không có cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật. Bị cáo cũng đã trả lại số tiền 5.000.000 đồng cho bà L. Bà L không có yêu cầu gì thêm.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Mỹ L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; các điểm i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Mỹ L 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Hoàng Mỹ L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:129/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về