Bản án 129/2018/HSST ngày 27/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 129/2018/HSST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Công H - Sinh năm 1984; tên gọi khác: Không; nơi đăng kí hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu 3, xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ văn hóa: 12/12; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; bố: Trương Văn K (đã chết); mẹ: Sái Thị X - sinh năm 1949 ( trú tại: Khu 3, xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ); vợ, con: chưa có; gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ năm; tiền sự: Không; tiền án: 02+ Bản án Hình sự sơ thẩm số 46/2016/HSST ngày 30/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xử phạt H 09 tháng tù về "Tội trộm cắp tài sản” (giá trị tài sản H trộm cắp là 4.500.000 đồng), H chấp hành xong án phạt tù ra trại ngày 11/02/2017.

+ Bản án Hình sự sơ thẩm số 79/2017/HSST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xử phạt H 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2017 về "Tội trộm cắp tài sản” (giá trị tài sản H trộm cắp là 2.420.000 đồng), H chấp hành xong án phạt tù ra trại ngày 30/3/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Phú Thọ (có mặt)

Người bị hại : Anh: Hoàng Minh Đ – sinh năm 1997 HKTT: xã Hương Cần, huyện T, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định xuống thành phố V để trộm cắp tài sản, khoảng 16 giờ ngày 17/6/2018, Trương Công H, sinh năm 1984, trú tại: Khu 3, xã V, huyện H, tỉnh Phú Thọ đi xe khách từ huyện Hạ Hòa xuống thành phố V, tỉnh Phú Thọ, đến khoảng 19 giờ cùng ngày H xuống xe tại ngã 3 Khu Công nghiệp Thụy Vân, thành phố V. Sau khi xuống xe, H đi bộ lang thang để tìm ai có tài sản sơ hở trộm cắp, khoảng 04 giờ ngày 18/6/2018 H đi bộ đến khu vực gần cổng Trường Cao đẳng nghề Phú Thọ thuộc khu 4B, phường Vân Phú, thành phố V, khi đi vào trong ngõ 3581 cách đường Quốc lộ 2 khoảng 30 mét, H thấy có một dãy phòng trọ không khóa cửa, H đi vào dãy phòng trọ phát hiện phòng số PA4 của anh Hoàng Minh Đ, sinh năm 1997, trú tại: Xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ và anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1997, trú tại: Xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ đang thuê trọ cửa phòng khép hờ, không khóa, bên trong anh Đ, anh Sơn đang ngủ, trên giường để 03 chiếc điện thoại di động của anh Đ, quan sát xung quanh không có ai, H lén lút mở cửa vào trong phòng lấy 03 chiếc điện thoại, gồm: 01 chiếc Iphone 6S màu xám ghi, 01 chiếc Iphone 7 màu hồng và 01 chiếc Nokia 8800 màu đen cho vào túi quần, sau đó H đi ra Quốc lộ 2 đón xe taxi đến Nhà nghỉ Phú H, tại khu 6A, phường Nông Trang, thành phố V, thuê phòng 402 để nghỉ (bút lục từ số 71 đến số 87. Khoảng 07 giờ 18/6/2018 anh Hoàng Minh Đ ngủ dậy phát hiện bị mất tài sản, anh Đ đã sử dụng điện thoại Iphone định vị dò tìm và phát hiện nghi vấn tại Nhà nghỉ Phú H, anh Đ đã đến Công an phường Vân Phú trình báo.

Công an phường V đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với Trương Công H, thu giữ 03 chiếc điện thoại gồm: 01 chiếc Iphone 6S màu xám, dung lượng 16 GB, số imei 353267076393733; 01 chiếc Iphone 7 màu hồng dung lượng 32 GB, số imei 355318089340712 và 01 chiếc Nokia 8800 màu đen, số imei 358645010232312, 01 sim số 0981575444, 01 sim số 01234564397, số tài sản trên H khai nhận do H trộm cắp ngày 18/6/2018 mà có. Cùng ngày, Công an phường Vân Phú chuyển đối tượng và vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố V để giải quyết.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trương Công H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành trưng cầu định giá tài sản đối với 03 chiếc điện thoại, 02 chiếc sim điện thoại do H chiếm đoạt. Tại Kết luận định giá tài sản số 07/2018/HDĐG-KL ngày 25/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản - Uỷ ban nhân dân thành phố V kết luận:

“01 chiếc Iphone 6S màu xám, dung lượng 16 GB, số imei 353267076393733 có giá là 3.600.000 đồng.

01 chiếc Iphone 7 màu hồng dung lượng 32 GB, số imei 355318089340712 có giá là 6.500.000 đồng.

01 chiếc Nokia 8800 màu đen, số imei 358645010232312 có giá là 3.600.000 đồng.

02 sim điện thoại có giá 100.000 đồng. Tổng cộng 13.800.000 đồng.”.

Ngày 05/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại, anh Hoàng Minh Đ đã nhận lại 01 chiếc điện thoại Iphone 6S màu xám, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 màu hồng, 01 chiếc điện thoại Nokia 8800 màu đen, 01 sim số 0981575444, 01 sim số 01234564397 và không có đề nghị gì.

Về điều kiện kinh tế của bị can: Cơ quan điều tra xác minh, xác định Trương Công H không có tài sản, thu nhập ngoài đồ dùng sinh hoạt thiết yếu.

Tại bản cáo trạng số 138/CT-VKS-VT ngày 28/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Trương Công H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trương Công H từ 27 (hai mươi bảy) đến 30 (ba mươi tháng)Thời tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ 18/6/2018 Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thành phố V, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo đúng thời hạn do pháp luật quy định. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì.

[2] Về nội dung:

Li khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Khong 04 giờ ngày 18/6/2018, tại khu 4B, phường Vân Phú, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, Trương Công H đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Hoàng Minh Đ gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 6S màu xám, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 màu hồng, 01 chiếc điện thoại Nokia 8800 màu đen, 01 sim điện thoại số 0981575444, 01 sim điện thoại số 01234564397. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt 13.800.000 đồng (mười ba triệu tám trăm nghìn đồng).

Hành vi trên của Trương Công H đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản với giá trị tài sản xác định là: 13.800.000 đồng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 .

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội. Trương Công H có đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, lần phạm tội này xác định là tái phạm nguy hiểm. Do vậy, H phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo có nhân thân xấu, trước lần phạm tội này bị cáo đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.Do vậy cần xử phạt bị cáo bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo thì cần xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định taaij điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản gì ngoài đồ dùng sinh hoạt thiết yếu nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với tài sản mà bị cáo H trộm cắp của anh Hoàng Minh Đ: xét thấy ngày 05/7/2018 anh Đ đã nhận lại toàn bộ tài sản gồm 01 chiếc điện thoại Iphone 6S màu xám, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 màu hồng, 01 chiếc điện thoại Nokia 8800 màu đen, 01 sim số 0981575444, 01 sim số 01234564397 do Cơ quan Cảnh sát điều tra trả và anh Đ không có đề nghị gì là phù hợp.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1/ Tuyên bố bị cáo: Trương Công H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trương Công H 27 ( hai mươi bảy )tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam là ngày 18/6/2018.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2/ Về án phí: Bị cáo Trương Công H phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền khabgs cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được nêm yết để đề nghị xét xử theo trình tự phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2018/HSST ngày 27/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:129/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về