Bản án 129/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 129/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 299/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2018 về việc tranh chấp “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị NGUYỄN THỊ L, sinh năm 1989

Địa chỉ: TTC, xã PL, huyện TG, tỉnh TH.

*Bị đơn: Anh DƯƠNG THÁI B, sinh năm 1980

Địa chỉ: ấp LT, xã ML, huyện CB, tỉnh TG.(Chị L có mặt, anh B vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 24/4/2018 và lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Chị và anh B xác lập quan hệ vợ chồng năm 2013, có đăng ký kết hôn, sau khi cưới về sống hạnh phúc năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ đó cho đến nay. Nguyên nhân theo chị là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống hay cải vả nhau, anh B hay đánh đập chị nhiều lần, anh có nhiều mối quan hệ phức tạp bên ngoài, chị nhiều lần khuyên can nhưng anh B không sữa đổi, vợ chồng hàn gắn đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Nay chị xin ly hôn anh Bình.

+ Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Dương Thái B đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh không cung cấp ý kiến đối với vụ kiện.

Tại phiên tòa chị Lâm vẫn giữ ý kiến và yêu cầu như trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Anh Dương Thái B đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh vắng mặt không lý do, căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh B là phù hợp theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung:

 [1] Về quan hệ hôn nhân : Chị Nguyễn Thị L và anh Dương Thái B xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2013, có đăng ký kết hôn. Theo lời chị L khai vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn và tự cắt đứt quan hệ vợ chồng từ thời gian đó đến nay, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm về cuộc sống, vợ chồng không hợp tính tình, thường xuyên cự cãi nhau, anh B hay đánh đập chị nhiều lần, anh B có nhiều mối quan hệ phức tạp bên ngoài từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, chị nhiều lần cho anh B cơ hội nhưng anh không sửa đổi, vợ chồng hàn gắn đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành nay chị xin ly hôn anh B. Còn anh B vắng mặt không lý do, mặc dù đã được tòa án triệu tập (tống đạt) hợp lệ nhiều lần thông báo về việc chị L xin ly hôn anh nhưng anh không cung cấp ý kiến lời khai đối với việc kiện, chứng tỏ anh không còn quan tâm đến quan hệ vợ chồng giữa anh và chị L, đồng thời xem như anh tự từ bỏ quyền bảo vệ quyền và ích lợi của mình. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị L là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, cho chị được ly hôn anh B là phù hợp theo điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Không có

[3] Về tài sản chung: Không có

[4] Về nợ chung: Không có

[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L. Cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Dương Thái B.

2/ Về con chung: Không có.

3/ Về tài sản chung: Không có.

4/ Về nợ chung: Không có.

5/ Về án phí:

Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 08565 ngày 24/4/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè nên xem như chị đã thi hành xong và không phải nộp tiếp.

Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ khi nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:129/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về