Bản án 128/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con sau khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 128/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 390/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc "Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con sau khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 07/12/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1979.(Có mặt) Địa chỉ: Ấp Sơn Lập, xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc L, sinh năm 1974.(Có mặt) Địa chỉ: Ấp Sơn Tân, xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Quốc L tự tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 1997, đến năm 1999 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoản năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L không chăm lo làm ăn, ghen tuông vô cớ, kinh tế khó khăn, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cả hai không còn sống chung từ tháng 8/2020, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, do đó chị Lyêu cầu được ly hôn với anh L.

- Về con chung: Có 02 người con chung Nguyễn Hoài B sinh ngày 21/10/1998 và Nguyễn Hoài N sinh ngày 10/10/2005, cháu N đang sống với chị L. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

Theo bản tự khai và lời khai của bị đơn và tại phiên tòa anh LNguyễn Quốc L trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Trần Thị L tự tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 1997, đến năm 1999 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chị L nhiều lần bỏ nhà đi, sau đó thì quay về chung sống không được bao lâu thì chị L tiếp tục bỏ đi, vợ chồng không tôn trọng nhau, chị L cho rằng anh làm ít tiền nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn sống chung từ tháng 9/2020 cho đến nay. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý, vì anh còn thương chị L.

- Về con chung: Có 02 người con chung Nguyễn Hoài B sinh ngày 21/10/1998 và Nguyễn Hoài N sinh ngày 10/10/2005, cháu Nhật đang sống với chị L. Nếu giải quyết ly hôn, anh L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nhật, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, căn cứ hồ sơ vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị L làm đơn yêu cầu được ly hôn với Anh Nguyễn Quốc L có địa chỉ cư trú Ấp Sơn Lập, xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]Về nội dung: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Quốc L sống chung với nhau năm 1997 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào năm 1999 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu của chị L, Hội đồng xét xử xét thấy chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Thời gian gần đây, đã xảy ra mâu thuẫn, cả hai thường xuyên cự cãi, lý do do anh L không chăm lo làm ăn, ghen tuông vô cớ, do điều kiện kinh tế khó khăn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn chung sống tháng 8/2020, nhưng anh L không đồng ý ly hôn với chị L vì cho rằng còn thương chị L. Tuy nhiên quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, đã tạo điều kiện cho chị L và anh L hàn gắn nhưng cả hai không có biện pháp khắc phục để hàn gắn tình cảm vợ chồng điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh L mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

Về con chung: Có 02 người con chung Nguyễn Hoài B sinh ngày 21/10/1998 và Nguyễn Hoài N sinh ngày 10/10/2005, cháu Nhật đang sống với chị L. anh L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nhật, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị L cũng đồng ý giao con cho anh L nuôi dưỡng đây là sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự do đó cần chấp nhận yêu cầu của anh L giao cháu Nhật cho anh L nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh L phải tạo điều kiện cho chị L được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết Về nợ chung: Ghi nhận chị L và anh L xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của ông bà trong thời kỳ sống chung thì chị L và anh L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[3]Về án phí sơ thẩm: Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị L Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Quốc L.

Về quan hệ con chung: Chị Trần Thị L có nghĩa vụ giao con chung Nguyễn Hoài N sinh ngày 10/10/2005 cho anh Nguyễn Quốc L chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị L không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng chị có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét Về nợ chung: Ghi nhận chị L và anh L xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của ông, bà trong thời kỳ sống chung thì chị L và anh L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 0004068 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hi ện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:128/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về