Bản án 128/2019/HSST ngày 17/10/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN nhân dân HUYỆN QV, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 128/2019/HSST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/2019/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Thị K, sinh năm 1977; HKTT: Thôn ML, xã MH, huyện LG, tỉnh BG; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Lê Văn H (đã chết) và con bà Mạc Thị L, sinh năm 1934; Gia đình bị cáo có 06 anh chị em, bản thân bị cáo là thứ sáu; Chồng, con: Không có; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2005, bị UBND thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 12 tháng về hành vi bán dâm. Ngày 27/10/2007, Lê Thị K chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2019 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh BN. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 06/5/2019, Lê Thị K thuê nhà và đất của anh Nguyễn Hữu N, sinh năm 1969 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện QV, tỉnh BN để kinh doanh cà phê, thư giãn, bán dâm. Ngày 10/5/2019, Lê Thị K mở quán cà phê 899 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu. Sau đó, K tuyển chị Nguyễn Thị M, chị Bùi Thị D và chị Bùi Thị D đến làm N viên của quán. Khi chị M, chị D, chị D đến làm việc thì K và N viên đã thỏa thuận với nhau, số tiền mỗi lần bán dâm cho khách đến mua dâm là 200.000đ hoặc 250.000đ do K thu. Nếu tiền bán dâm là 250.000đ thì K được hưởng 130.000đ, N viên bán dâm được 120.000đ; Số tiền bán dâm được 200.000đ thì K được hưởng 100.000đ và N viên bán dâm được 100.000đ. Bao cao su N viên mua.

Khong 22 giờ, ngày 31/5/2019, khi K đang ngồi uống nước tại quán Café 899 cùng với chị D và chị D còn chị M ở trong phòng số 01 của quán thì có anh Nguyễn Văn V, anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Đăng C đến. Khi vào quán anh V nói với K “Ở đây có thư giãn từ A đến Z không?”, K trả lời “Có”. Anh V hỏi tiếp “Ở đây toàn N viên già thôi à, không có N viên trẻ à?” Chị D trả lời “Toàn N viên già thôi, trong phòng còn một em nữa”, Nghe nói vậy, V đi vào phòng số 01, sau đó ra bảo “Thế cũng được, bao nhiêu tiền một vé?”, K và D cùng trả lời “250.000đ một vé”. V đi ra hỏi T và C có đi không?, T đồng ý còn C không đi. V nói “cho hai vé” và đưa cho K 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ, K cầm tiền và anh V đi vào phòng số 01. Khi vào phòng anh V và chị M tự cởi quần áo rồi chị M lấy 01 bao cao su ở trên bàn xé bao cao su và lồng vào dương vật anh V, anh V và chị M quan hệ tình dục.

Anh T bảo chị D đi vào phòng số 04, khi vào phòng, anh T và chị D tự cởi quần áo, chị D lấy bao cao su lồng vào dương vật anh T. Chị D và anh T quan hệ tình dục. Khi anh V và chị M đang quan hệ tình dục ở phòng số 01, anh T và chị D đang quan hệ ở phòng số 04 của quán Café 899 do K làm chủ thì bị Công an huyện QV phối hợp với Công an xã Phương Liễu bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng tại phòng số 01 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P1); 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su đã bóc tại phòng số 04 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P4). Thu của Lê Thị K 500.000đ; 01 ví đen bên trong có 4.179.000đ, 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị K, 01 điện thoại Samsung J7, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng; 09 bao cao su hiệu VIP plus chưa qua sử dụng; 02 vỏ bao cao su ở góc bên phải của quán.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 124/CTr-VKS ngày 13/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện QV đã truy tố Lê Thị K về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QV phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị K phạm tội “Chứa mại dâm” Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử phạt Lê Thị K từ 20 đến 24 tháng tù. Hình phạt tù được tính từ ngày 01/6/2019 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng tại phòng số 01 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P1); 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su đã bóc tại phòng số 04 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P4); 09 bao cao su hiệu VIP plus chưa qua sử dụng; 02 vỏ bao cao su.

Tch thu sung ngân sách nhà nước 500.000đ.

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khong 22 giờ ngày 31/5/2019, anh Nguyễn Văn V và anh Nguyễn Văn T đến quán Cafe 899 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện QV, tỉnh BN gặp Lê Thị K – sinh năm 1977, HKTT: Thôn ML, xã MH, huyện LG, tỉnh Bắc Giang là chủ quán đặt vấn đề mua dâm với N viên của quán. K đồng ý và thu của anh V 500.000đ. Sau đó chị Bùi Thị D phòng số 04 bán dâm cho anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn V vào phòng số 01 quan hệ tình dục với với chị Nguyễn Thị M. Khi các đối tượng trên đang quan hệ tình dục (mua bán dâm) tại quán Cafe 899 thì bị Công an huyện QV và Công an xã Phương Liễu bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Lê Thị K đã phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đến đaọ đức xã hội, nếp sống văn minh và sức khỏe con người. Mại dâm là một tệ nạn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm lan truyền các căn bệnh xã hội. Do vậy, Đảng và nhà nước ta đã và đang vận động, tuyên truyền giáo dục nhân dân nhanh chóng đẩy lùi tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo thấy được tính chất nguy hiểm của sự việc nhưng chỉ vì hám lợi mà bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật. Trong cùng thời điểm, bị cáo đã có hành vi chứa hai đôi nam nữ mua bán dâm tại quán Café 899 do bị cáo làm chủ. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, mặc dù hành vi của bị cáo không bị coi là phạm tội nhiều lần do chỉ có anh V đứng ra giao dịch việc mua bán dâm nhưng đã thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cuả bị cáo thì thấy;

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng có nhân thân xấu. Năm 2005 bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi bán dâm. Bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa đổi, tu dưỡng bản thân mà lại đi vào con đường phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người buông thả, khó giáo dục. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên khi lượng hình Hội đồng xét xử cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, bản thân có một mình không chồng, không con, mẹ già yếu, gia đình thuộc hộ nghèo của địa phương nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với những người mua dâm khi bị bắt khai là Nguyễn Văn V và Nguyễn Văn T, quá trình làm việc với Cơ quan Công an, lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đã tiến hành xác minh, không có đối tượng nào có tên và lý lịch như Nguyễn Văn V và Nguyễn Văn T đã khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với chị Bùi Thị D, Nguyễn Thị M là người bán dâm, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, Công an huyện QV ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Đăng C và chị Bùi Thị D, khi xảy ra sự việc có mặt tại quán Cà phê 899. Anh C, chị D chứng kiến việc giao dịch mua, bán dâm nhưng không tham gia việc mua, bán dâm, Cơ quan điều tra đã nhắc nhở và không xử lý là phù hợp.

Đối với anh Nguyễn Hữu N là chủ nhà cho Lê Thị K thuê, anh N không biết việc Lê Thị K thuê nhà để hoạt động chứa mại dâm. Cơ quan điều tra đã nhắc nhở đối với anh N là phù hợp.

Đi với 01 ví màu đen bên trong có 4.179.000đ; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị K; 01 điện thoại di động Sam sung J7; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng, xác định là của Lê Thị K không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả cho chị Lê Thị Khiên là chị gái của K quản lý là phù hợp.

Về vật chứng: Đối với 01 bao cao su đã qua sử dụng tại phòng số 01 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P1); 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su đã bóc tại phòng số 04 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P4); 09 bao cao su hiệu VIP plus chưa qua sử dụng; 02 vỏ bao cao su không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Đi với số tiền 500.000đ là tiền do hành vi phạm tội mà có nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định cuả pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị K phạm tội “Chứa mại dâm”;

Áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Lê Thị K 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 01/6/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng tại phòng số 01 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P1); 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su đã bóc tại phòng số 04 (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu P4); 09 bao cao su hiệu VIP plus chưa qua sử dụng; 02 vỏ bao cao su.

Tch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2019 giữa Công an huyện QV với Chi cục Thi hành ánhân dân sự huyện QV, tỉnh BN).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

480
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2019/HSST ngày 17/10/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:128/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về