Bản án 128/2018/HS-ST ngày 13/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 128/2018/HS-ST NGÀY 13/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A - thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 129/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/QĐST-HS ngày 28/8/2018, đối với các bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức A, sinh năm: 1993; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T Oai, xã Tiên Dương, huyện A, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Số 2/24/381, tổ dân phố Đ, phường P, quận B, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 11/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố: Nguyễn Doãn K, sinh năm 1969; Mẹ: Nguyễn Thị Thanh P, sinh năm: 1970; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/5/2018 đến ngày 30 tháng 5 năm 2018, Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29/5/2018 đến ngày 30/9/2018.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánnhư sau:

Hồi 23h30’ ngày 23/5/2018, tổ công tác Đại đội 2, tiểu đoàn 4, T đoàn Cảnh sát cơ động – Công an TP Hà Nội làm nhiệm vụ tại thôn B, xã K, A, Hà Nội phát hiện Nguyễn Đức A, sinh năm 1993 ở: Số 2/24/381, tổ dân phố Đ, phườngP, B, Hà Nội và Lê Quang T , sinh năm 1995 ở Ngõ 125, phường P, B, Hà Nội đang điều khiển xe máy Biển kiểm soát : 29L1- 03705 có biểu hiện nghi vấn. Tố công tác đã yêu cầu dừng xe kiểm tra và tiến hành khám người theo thủ tục hành chính đối với Đức A và T. Quá trình kiểm tra hành chính đã phát hiện tại túi quần bò phía trước bên phải đang mặc của Nguyễn Đức A có 01 túi nilon màu trắng kích thước (02x1,5) cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. Đức A khai là ma túy.

Khám phương tiện đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade BKS:19L1– 03705 số khung: RLHJF2705BY032869, số máy: JF27E- 0738842 không phát hiện thu giữ gì.

Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính, tạm giữ, niêm phong vật chứng và đưa Nguyễn Đức A, Lê Quang T cùng tang vật về trụ sở Công an huyện A để tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngoài ra, quá trình kiểm tra cơ quan còn tạm giữ của Nguyễn Đức A 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO, số Imei1: 862049035316417,số Imei2: 862049035316409, số thuê bao 1: 0964423296, số thuê bao 2: 01628756539. Tạm giữ của Lê Quang T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xanh đen, số Imei : 353353092541776, số thuê bao: 0965695585.

Cơ quan công an đã trưng cầu giám định đối với 01 túi nilon màu trắng thu của Nguyễn Đức A. Ngày 01/6/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong túi nilông (thu giữ cửa Nguyễn Đức A) là ma tuý loại Methamphetamine khối lượng: 0,161 gam.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Đức A tại tổ dân phố Đ,phường T, B, Hà Nội không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến hành vi phạm tội của Đức A.

Tại cơ quan Điều tra Nguyễn Đức A khai nhận: Khoảng 08h00 ngày 23/05/2018, Nguyễn Đức A đi làm ở khu vực thôn Bầu, Kim Chung, A, Hà Nội thì gặp 01 người bạn mới quen ngoài xã hội tên là Vũ (không xác định tên tuổi, địa chỉ cụ thể), do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đức A có nhờ Vũ mua hộ 200.000 đồng tiền ma túy đá. Vũ đồng ý, nhận 200.000đ Đức A đưa rồi đi khoảng 01 tiếng sau quay lại, đưa cho Đức A 01 túi ni lông có kích thước (02x1,5) cm bên trong có ma túy đá. Đức A cất số ma túy trên vào túi quần bò bên phải phía trước. Sau đó, Đức A tiếp tục đi làm bình thường. Đến khoảng 23h00 cùng ngày, do không có xe đi về nên Đức A gọi điện thoại nhờ Lê Quang T sang đón về. T đồng ý. T điều khiển xe máy Honda- AirBlade nêu trên đến đón Đức A đi từ thôn N, xã K Chung về. Khi T và Đức A đi đến đoạn cánh đồng thôn Bắc thuộc thôn B, xã K, A thì bị lực Cảnh sát cơ động yêu cầu dừng xe kiểm tra và khám người theo thủ tục hành chính đối với Đức A và T. Quá trình khám người phát hiện tại túi quần bò phía trước bên phải của Đức A có 01 túi ni long màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. Đức A khai nhận các hạt tinh thể trong túi ni long trên là ma túy. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong rồi đưa Đức A và T về trụ sở để làm rõ. Việc Đức A mang ma túy trong người T không biết, Đức A cũng không nói cho T biết

Tại cơ quan điều tra Lê Quang T khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Đức A. T không biết việc Đức A tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Nguyễn Đức A khai nguồn gốc ma tuý của Đức A cơ quan điều tra đã thu giữ là do Đức A nhờ một thanh niên tên Vũ (không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể) mua hộ với giá 200.000. Ngoài lời khai của Đức A không có tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ điều tra và xử lý đối với Vũ do đó cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Về xử lý vật chứng:

Đối với số đồ vật, tài sản thu giữ cơ quan điều tra thu giữ của gồm: 01 chiếc xemáy nhãn hiệu Honda Airblade BKS:19L1 – 03705 ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xanh đen, số thuê bao: 0965695585 của Lê Quang T, quá trình điều tra xác định là xe mô tô là của gia đình T, T sử dụng đi đón Đức A; 01 điện thoại là tài sản của T sử dụng hàng ngày. Quá trình sử dụng tài sản trên T không biết việc Đức A tàng trữ trái phép chất ma tuý nên cơ quan điều tra trả lại T là có căn cứ

Đối với chiếc điện thoại 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Đức A. Xét thấy không phải là vật chứng liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra trả lại cho Đức A là có căn cứ.

Đối với 01 túi nilon màu trắng thu của Nguyễn Đức A. Ngày 01/6/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong túi nilông là ma tuý loại Methamphetamine khối lượng : 0,161 gam.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airbalade Bienr kiểm soát:19L1 – 03705 ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu xanh đen, số thuê bao: 0965695585 của Lê Quang T, quá trình điều tra xác định là xe mô tô là của gia đình T, T sử dụng đi đón Đức A; 01 điện thoại là tài sản của T sử dụng hàng ngày. Quá trình sử dụng tài sản trên T không biết việc Đức A tàng trữ trái phép chất ma tuý nên cơ quan điều tra trả lại T là có căn cứ

Đối với chiếc điện thoại 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Đức A. Xét thấy không phải là vật chứng liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra trả lại cho Đức A là có căn cứ.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Đức A khai nhận hành vi phạm tội.

Bản Cáo trạng số 129/CT-VKSĐA ngày 17/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận huyện A quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Đức A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa,

Bị cáo khai nhận tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo thừa nhận: Khoảng 23 giờ 30 ngày 23 tháng 5 năm 2018, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,161 gam ma túy loại Methaphetamine trong túi quần bò bên phải bị cáo đang mặc trên người.

Hành vi của bị cáo đủ cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo, giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX :

- Áp dụng Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Đức A từ 12 đến 15 tháng tù giam.

- Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, lại đau ốm không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

- Biện pháp tư pháp: Không

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, 106 Bộ luật Tố tụng hình sự :

Tịch thu tiêu hủy: 0,161 gam Methaphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký của Giám định viên và Nguyễn Đức A;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện A thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra.

Được chứng minh bằng tang vật vụ án thu được từ bị cáo Nguyễn Đức A, là: 0,161 gam ma túy tổng hợp Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng tr trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý và chất gây nghiện khác, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, mà còn làm gia tăng các tệ nạn về ma tuý và các loại tội phạm khác trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, huyện A nói riêng. Ma túy với một tác hại khôn lường do sức tàn phá của nó, chính vì vậy mà Nhà nước và cả cộng đồng xã hội ra sức tìm cách bài trừ. Bị cáo nhận thức được điều này, song để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung nhằm hạnchế các loại tội phạm khác trên địa bàn huyện A, cũng đồng thời tạo một khoảng thờigian để bị cáo được cai nghiện ma túy trong môi trường pháp luật.

[4] Về nhân thân và tiền án, tiền sự của bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu. [5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án đã xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể:

*Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

*Tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập lại đang bị bệnh nên không phạt tiền bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp: Không.

[8] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 - Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộluật tố tụng hình sự,

Tịch thu tiêu hủy:

+0,161 gam ma túy Methaphetamine được niêm phong trong một phong bì cóchữ ký của Giám định viên và Nguyễn Đức A;luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 249; Điều 38, Khoản 1 Điểm s Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Nguyễn Đức A 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ 06 ngày tạm giữ từ ngày 24/05/2018 đến ngày 30/5/2018. Buộc bị cáo phải chấp hành 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi tư) ngày tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 điểm a Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 0,161gam ma túy methaphetamine (Chi tiết như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/8/2018 của Công an huyện A với Chi cục thi hành án dân sự huyện A). Bị cáo Nguyễn Đức A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2018/HS-ST ngày 13/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:128/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về