Bản án 127/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 127/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Lê Hồng D (tên gọi khác T), sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Quốc V, sinh năm 1965 và bà Lê Thị Hồng K, sinh năm 1966; 01 em ruột, sinh năm 2000; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 13/12/2018 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giam ngày 21/01/2019. Có mặt.

2. Trần Thanh T (tên gọi khác K), sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: khu phố Đ, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn C, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Trung C, sinh năm 1972; có 01 anh ruột, sinh năm 1993; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 24/02/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng, chấp hành xong vào ngày 30/8/2018; bị bắt tạm giam ngày 21/01/2019. Có mặt.

- Bị hại: Chị Mai Thị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bùi Lê Thanh D, sinh năm 2000; địa chỉ khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Thanh L, sinh năm 1994; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 21/01/2019 Bùi Lê Hồng D điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 61D1-783.66 đến chở Trần Thanh T đi chơi. Khoảng 16 giờ, khi cả hai đi trên đường Nguyễn Hữu Cảnh thuộc Tổ 6, khu phố Đông A, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An thì Duy phát hiện chị Mai Thị H đang điều khiển xe mô tô biển số 61D1-840.21, trong túi quần trước bên phải có 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone X, nên D rủ Thanh giật chiếc điện thoại. D điều khiển xe chạy vượt lên song song bên phải xe chị H, T ngồi sau dùng tay trái giật chiếc điện thoại trong túi quần chị H rồi D tăng ga xe bỏ chạy về hướng Quốc lộ 1K. Chị H truy hô nên được anh Nguyễn Thanh L đang điều khiển xe máy chạy ngược chiều đuổi theo được khoảng 1km, khi đi đến đường Hoàng Hoa Thám thì D bị té xe làm cả hai ngã xuống đất, anh L bắt giữ được T giao cho Công an phường Đông Hòa, riêng D trốn thoát. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Dĩ An ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Bùi Lê Hồng D.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động kiểu dáng iphone X (Trung Quốc) màu đen; xe mô tô kiểu dáng Honda Wave biển số 61D1-783.66 màu trắng, đen, bạc, số khung 3902HY112320, số máy JA39E0112380

Theo kết luận định giá tài sản số 13/BB.ĐG ngày 29/01/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận như sau: Điện thoại di động kiểu dáng iphone X (Trung Quốc) màu đen, trị giá 1.600.000 đồng.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng iphone X (Trung Quốc) màu đen đã thu hồi trả lại cho người bị hại chị Mai Thị H, không có yêu cầu gì khác.

Đối với xe mô tô kiểu dáng Honda Wave biển số 61D1-783.66 màu trắng, đen, bạc, số khung 3902HY112320, số máy JA39E0112380 qua xác minh xe của Bùi Lê Thanh D (em gái của bị cáo D), D cho bị cáo D mượn xe để đi chơi và không biết sử dụng xe vào việc phạm tội nên đã trả lại xe cho D.

Tại cáo trạng số: 113/CT-VKS-DA ngày 01 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T về Tội cướp giật tài sản theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Bùi Lê Hồng D mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; bị cáo Trần Thanh T mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 16 giờ ngày 21/01/2019, Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 61D1-783.66 đi trên đường Nguyễn Hữu Cảnh thuộc tổ 6, khu phố Đông A, phường Đông Hoà, thị xã Dĩ An, thì phát hiện bị hại chị Mai Thị H đang điều khiển xe mô tô biển số 61D1-840.21, trong túi quần trước bên phải có 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone X. D điều khiển xe chạy vượt lên song song bên phải xe chị H, T ngồi sau dùng tay trái giật chiếc điện thoại trong túi quần chị H rồi tăng ga xe bỏ được khoảng 1km thì bị ngã, T bị anh Nguyễn Thanh L bắt, còn D chạy thoát. Cùng ngày, D bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:.....

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm; ...”.

Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh Th đã đủ yếu tố cấu thành Tội cướp giật tài sản. Do đó Cáo trạng số: 113/CT–VKS-DA ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam tư lợi mong muốn có tiền để tiêu xài nên đã cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xem xét các tình tiết trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo nghiện ma túy và có 01 tiền sự chưa được xóa.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T phạm Tội cướp giật tài sản. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Lê Hồng D 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/01/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/01/2019.

2. Án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Bùi Lê Hồng D và Trần Thanh T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:127/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về