Bản án 127/2019/HSST ngày 05/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 127/2019/HSST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 119/2019/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Phùng Văn D, sinh năm 1985; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn ĐS, xã T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phùng Văn T và bà Sầm Thị L; có vợ là Phùng Thị Th (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: 01. Tại bản án số 73/2016/HSST ngày 20/5/2016, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản 10.000.000đ); tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 87/2009/HSST ngày 29/7/2009, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 21/3/2013, Công an phường ĐĐ, thành phố V xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 21/01/2015, Công an tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 27/01/2015, Công an tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 15/5/2015, Công an phường ĐĐ, thành phố V xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt, tạm giam từ ngày 31/7/2019 đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Văn N (pháp danh Thích Thiện H), sinh năm 1986; nơi cư trú: Chùa TS, phường TS, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Nguyên đơn dân sự: Chùa L (An Trấn Tự); địa chỉ: Ngõ 5, đường TP, phường LB, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc Người đại diện: Đại đức Thích Giác M - Trụ trì Chùa L

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Văn N (pháp danh Thích Thiện H), sinh năm 1986; nơi cư trú: Chùa TS, phường TS, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn N1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 25/12/2017, Phùng Văn D đến khu vực D, phường LB, thành phố V mục đích xem ai có tài sản sơ hở để trộm cắp. D đi vào Chùa L tại ngõ 5, đường TP, phường LB, quan sát không có người trông coi, để ý nên đến Ban thờ gian chính lấy số tiền lễ đặt trên đĩa tổng cộng là 150.000đ đúc vào túi quần. Sau đó, D đi vào gian buồng, phát hiện anh Nguyễn Văn N (pháp danh Thích Thiện H, người trông coi, quản lý Chùa L) đang nằm ngủ, bên cạnh sườn để 01 chiếc máy tính bảng Ipad mini3, màu vàng đang sạc pin. D quan sát anh N đắp chăn ngủ, không để ý nên đã rút bỏ sạc pin cất giấu chiếc Ipad vào trong áo trước bụng rồi đi ra khỏi chùa. Sau đó, D bắt xe bus xuống Cửa hàng Nam mobile của anh Nguyễn Văn N1 (khu phố 1, thị trấn H, huyện B) bán cho anh Nguyễn Văn N1 với giá 1.200.000đ. Tổng số tiền có được từ việc trộm cắp tài sản và bán tài sản trộm cắp là 1.350.000đ D tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi mua được Ipad của D, anh Nam tháo pin, màn hình bán cho 01 nam giới (không biết tên, tuổi, địa chỉ) được 1.400.000đ, chỉ còn lại vỏ máy, mặt cảm ứng và main. Ngày 09/5/2018, anh Nam giao nộp vỏ máy, mặt cảm ứng và main của chiếc Ipad cùng với số tiền 200.000đ (tiền chênh lệch do bán pin của chiếc Ipad) để phục vụ điều tra.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 09/5/2018, anh Nguyễn Văn N có đơn trình báo Cơ quan công an về việc anh bị mất trộm chiếc máy tính bảng Ipad và 150.000đ tiền lễ đặt trên ban thờ của Chùa L.

Tại bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 98/KL-HĐĐG ngày 22/6/2018 của Hội đồng định giá UBND thành phố V, kết luận: 01 máy tính bảng Ipad Mini3, 3G nhãn hiệu Apple, máy cũ đã qua sử dụng, màu vàng Gold . Tổng giá trị là 3.500.000 đồng.

Công an thành phố V trích xuất hình ảnh, video từ camera Chùa L (trưng cầu giám định hình ảnh) xác định người đột nhập vào Chùa trộm cắp các tài sản nêu trên là Phùng Văn D. Quá trình điều tra vụ án, D bỏ trốn, Công an thành phố V ra lệnh truy nã và ngày 31/7/2019, D bị bắt theo lệnh truy nã.

Tại Cáo trạng số: 128/CT-VKSTPVY ngày 15/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Phùng Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Phùng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phùng Văn D từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự: Tịch thu tiêu hủy 01 mặt cảm ứng, 01 vỏ, 01 main của chiếc Ipad mini3 do không còn giá trị sử dụng; tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ của anh Nguyễn Văn N1 (tiền thu lời từ việc mua bán chiếc máy tính bảng do bị cáo phạm tội mà có); buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn Văn N 3.500.000đ; bồi thường cho Chùa L 150.000đ.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Phùng Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận:

Khong 15 giờ ngày 25/12/2017, tại Chùa Láp, phường Liên Bảo, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Bị cáo Phùng Văn D đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy tính bảng Ipad Mini3, 3G nhãn hiệu Apple, màu vàng Gold đã cũ của anh Nguyễn Văn N (pháp danh Thích Thiện H - trị giá 3.500.000đ) và số tiền công đức 150.000đ của Chùa L. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.650.000đ. Hành vi của bị cáo thực hiện 25/12/2017 là thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thời điểm phát hiện hành vi phạm tội sau ngày Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 và khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 không có sự khác nhau về mức hình phạt nên áp dụng quy định của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo là phù hợp.

Hành vi của bị cáo Phùng Văn D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất của vụ án tuy là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Tại bản án số 73/2016/HSST ngày 20/5/2016, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại Bản án số 87/2009/HSST ngày 29/7/2009, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 21/3/2013 và ngày 15/5/2015, Công an phường ĐĐ, thành phố V xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 21/01/2015 và ngày 27/01/2015, Công an tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục thực hiện hành vi pham tội. Thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng để răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tuy nhiên, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn N1 là người mua của bị cáo Phùng Văn D chiếc máy tính bảng Ipad Mini 3. Khi mua bị cáo nói được một người bạn cho nay không có nhu cầu sử dụng nên đem bán. Anh Nam không biết là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[5] Về dân sự và xử lý vật chứng:

Đi với chiếc máy tính bảng Ipad Mini3, 3G nhãn hiệu Apple, đã cũ là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn N. Nay anh N không có nhu cầu nhận lại vỏ máy, mặt cảm ứng và main do đã hết giá trị sử dụng và yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh Nghĩa giá trị của máy theo định giá là 3.500.000đ. Đối với số tiền công đức 150.000đ đặt trên đĩa để trên ban thờ là tài sản của Chùa L. Nay đại diện của Chùa L yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho Chùa L số tiền 150.000đ. Bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền trên nhưng hiện tại chưa có tiền để bồi thường nên cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên cho anh N và Chùa L là phù hợp.

Đi với số tiền 200.000đ của anh Nguyễn Văn N1 là tiền thu lời từ việc mua bán chiếc máy tính bảng do bị cáo phạm tội mà có. Anh N1 đã tự nguyện nộp lại cho Cơ quan điều tra nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

Đi với 01 mặt cảm ứng, 01 vỏ, 01 main chiếc Ipad mini3 do không còn giá trị sử dụng, anh N không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phùng Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 31/7/2019).

2. Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự:

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Văn N1.

- Buộc bị cáo Phùng Văn D bồi thường cho anh Nguyễn Văn N số tiền 3.500.000đ (ba triệu năm trăm nghìn đồng) và bồi thường cho Chùa L số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng).

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mặt cảm ứng, 01 vỏ, 01 main của chiếc Ipad mini3.

(có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/11/2019).

3. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành án theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Phùng Văn D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/HSST ngày 05/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:127/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về