Bản án 127/2019/HSPT ngày 04/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 127/2019/HSPT NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 104/2019/TLPT-HS ngày 05/3/2019 đối với bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST, ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Quyết T (Tên gọi khác: Bờm), sinh năm 1987 tại tỉnh Hà Nam; Nơi đăng ký HKTT: 54/98B P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn T và bà Phạm Thị H.

Tiền án: Tại bản án số 346/HSST, ngày 24/10/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản; tại Bản án số 412/HSST, ngày 25/11/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp hình phạt 02 năm tù cho hưởng ántreo tại bản án số 346/HSST ngày 24/10/2002, của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì Nguyễn Quyết T phải chấp hành là 4 năm tù giam; tại bản án số 217/HSPT, ngày 26/9/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản; tại bản án số 40/HSST, ngày 08/3/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, ngày 02/5/2017 chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa được xóa án tích. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện E, từ ngày 25/8/2018 cho đến nay. (Có mặt)

2. Nguyễn Văn N (tên gọi khác: Thẹo), sinh năm 1992 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 7, thị trấn Ea, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H.

Tiền án: Tại bản án số 85/HSST ngày 16/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện K, xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; Tại bản án số 91/HSPT ngày 15/3/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; tại bản án số 121/HSST ngày 16/4/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 3 năm tù của bản án số 91/HSPT ngày 15/3/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì Nguyễn Văn N phải chấp hành là 06 năm 06 tháng tù; tại bản án số 15/HSST ngày 25/5/2012 bị Tòa án nhân dân huyện KB, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.Ngày 22/8/2012, Tòa án nhân dân huyện KB, tỉnh Đắk Lắk tổng hợp hình phạt của 03 bản án nói trên, buộc Nguyễn Văn N phải chấp hành hình phạt 08 năm 03 tháng tù. Ngày 26/3/2018 đã chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện E, từ ngày 25/8/2018 cho đến nay. (Có mặt)

- Bị hại: Bà Đặng Thị T, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Tổ dân phố a, thị trấn Ea, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 12 tháng 8 năm 2018, Nguyễn Quyết T rủ Nguyễn Văn N đi dọc đường H, theo hướng từ thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đến tỉnh G tìm tài sản trộm cắp. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 47xx – 53xx, hiệu Sirius, màu sơn bạc đen chở N đi từ thành phố B đến huyện E. Khi đến quán tạp hóa của chị Đặng Thị T ở Tổ dân phố a, thị trấn Ea, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, thì phát hiện quán tạp hóa khóa cửa ngoài và không có người trông coi nên N và T dừng xe mô tô lại.

Lúc này, T dùng 01 một cái kìm cộng lực mang theo từ trước cắt khóa cửa quán tạp hóa rồi T nhặt 01 cây gỗ vuông dài 1,2 m, đường kính 02 cm; 01 cục gạch, loại gạch 04 lỗ đứng trước cửa quán tạp hóa cảnh giới cho N vào bên trong trộm cắp tài sản. Khi vào bên trong quán, N đi đến ngăn tủ quầy tính tiền lấy số tiền 34.500.000 đồng; 07 thẻ cào điện thoại mạng Viettel, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng; 20 thẻ cào điện thoại mạng Viettel mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đồng; 09 thẻ cào điện thoại mạng Viettel mỗi thẻ mệnh giá 20.000 đồng; 03 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 200.000 đồng; 04 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng; 05 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đồng; 06 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 20.000 đồng; 02 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 200.000 đồng; 03 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng; 01 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 50.000 đồng; 02 nhẫn vàng 9999, loại mỗi nhẫn 01 chỉ; 01 dây chuyền vàng Sài Gòn, loại 01 chỉ để trong 01 hộp nhựa, màu đỏ; 02 ví da nữ; 01 đôi bông tai bằng bạc. Sau khi lấy được tài sản T điều khiển xe mô tô chở N đi về hướng thành phố B, khi đến thôn b, xã N, huyện E, N vứt bỏ 02 cái ví da nữ và 01 cái kìm cộng lực. Khi về đến khu vực chợ TA, thành phố B, T và N chia nhau số tài sản đã trộm cắp được, cụ thể T được chia số tiền 17.250.000 đồng, nhiều thẻ cào điện thoại mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphone, trị giá 2.000.000 đồng; N được chia số tiền 17.250.000 đồng, nhiều thẻ cào điện thoại mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphone, trị giá 2.000.000 đồng; còn 01 nhẫn vàng 9999 loại 01 chỉ, T và N bán cho chị Hoàng Thị A là nhân viên bán hàng của tiệm vàng bạc đá quý KM, địa chỉ 89 đường Q, thành phố B, được 3.000.000 đồng, T và N chia đôi mỗi người được 1.500.000 đồng; 01 nhẫn vàng T đeo trên tay nhưng đã bị rơi mất; 01 dây chuyền vàng Sài Gòn; 01 đôi bông tai N đã vứt bỏ ở trước số nhà 89 đường Q, thành phố B. Số thẻ cào điện thoại và số tiền bán tài sản trộm cắp, T và N đã chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 852 ngày 22/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện K, kết luận: 02 nhẫn vàng loại 9999, loại mỗi nhẫn 01 chỉ, trị giá 6.900.000 đồng; 01 dây chuyền vàng sài gòn, loại 01 chỉ, trị giá 2.500.000 đồng; 01 đôi bông tai bằng bạc, loại 0,5 chỉ, trị giá 300.000 đồng; 07 thẻ cào điện thoại mạng Viettel, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng, trị giá 700.000 đồng; 20 thẻ cào điện thoại mạng Viettel mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đồng, trị giá 1.000.000 đồng; 09 thẻ cào điện thoại mạng Viettel mỗi thẻ mệnh giá 20.000 đồng, trị giá 180.000 đồng; 03 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 200.000 đồng, trị giá 600.000 đồng; 04 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng, trị giá 400.000 đồng; 05 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đồng, trị giá 250.000 đồng; 06 thẻ cào điện thoại mạng Vinaphone, mỗi thẻ mệnh giá 20.000 đồng, trị giá 120.000 đồng; 02 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 200.000 đồng, trị giá 400.000 đồng; 03 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng, trị giá 300.000 đồng; 01 thẻ cào điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 50.000 đồng, trị giá 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 13.700.000 đồng.

Ngoài lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên Nguyễn Văn N, Nguyễn Quyết T còn khai nhận thực hiện các vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn các huyện C, huyện K và thành phố B, cụ thể:

Vào khoảng tháng 07/2018, Nguyễn Quyết T và Nguyễn Văn N trộm cắp 01 mô tơ bơm nước; 01 máy khoan; 01 máy cắt; 01 cuộn dây đồng; 01 cuộn dây điện của một nhà dân tại khu vực dốc Buôn Rư thuộc địa phận huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, cả hai mang tài sản trộm cắp được về thành phố Buôn Ma Thuột bán cho một điểm thu mua phế liệu ở khu vực đường tránh thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk,được số tiền 2.600.000 đồng, số tiền bán được T và N chia nhau tiêu xài.

Vào khoảng tháng 08/2018, Nguyễn Quyết T và Nguyễn Văn N trộm cắp 01 ti vi Sam Sung; 01 máy tính bảng hiệu Sam Sung của một nhà dân tại khu vực Km 15, Quốc lộ 26 thuộc địa phận huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, cả hai mang về thành phố B bán ti vi cho một người phụ nữ, bán máy tính bảng cho một người dân ở khu vực chợ đêm thành phố B, tỉnh Đắk Lắk được 1.200.000 đồng, số tiền bán được T và N chia nhau tiêu xài.

Vào khoảng tháng 08/2018, Nguyễn Quyết T và Nguyễn Văn N trộm cắp 20 thùng bia, loại thùng giấy, nhiều nhãn hiệu: SÀI GÒN LAGER, HEINEKEN, TIGER của một quán tại khu vực đường Ng, thành phố B, rồi cả hai đem bán cho một người phụ nữ buôn bán bia ở khu vực chợ đêm thành phố B được 3.000.000 đồng, số tiền bán được T và N chia nhau tiêu xài hết.

Ngày 16/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã có Công văn trao đổi điều tra mở rộng vụ án đối với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, huyện K và thành phố B. Đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an C, huyện K và thành phố B đã tiến hành xác minh và thông báo tìm các chủ sở hữu của các tài sản có đặc điểm như khai nhận, nhưng chưa xác định được chủ sở hữu nên chưa có căn cứ xử lý.

Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 20 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện E truy tố để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Trộm cắp tài sản"theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Quyết T về tội “Trộm cắp tài sản"theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 23/01/2019 Tòa án nhân dân huyện E đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Quyết T và Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyết T 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 25 tháng 8 năm 2018).

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 25 tháng 8 năm 2018).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.

Ngày 25/01/2019, bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩmcác bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Quyết T theo điểm g, khoản 2 Điều 173 và bị cáo Nguyễn Văn N theo khoản 1 Điều 173của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 04 (Bốn) năm tù đối với bị cáo Nguyễn Quyết T và mức hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Văn N mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm các tình tiết giảm nhẹ gì mới nên không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tại phiên tòa các bị cáo không bào chữa, tranh luận gì thêm chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 00 giờ, ngày 13 tháng 8 năm 2018, tại Tổ dân phố b, thị trấn Ea, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Quyết T và Nguyễn Văn N, đã có hành vi lén lút trộm cắp của bà Đặng Thị T số tiền là 34.500.000 đồng; nhiều thẻ cào điện thoại các mạng Viettel, Mobiphone, Vinaphone; 02 nhẫn vàng 9999, loại mỗi nhẫn 01 chỉ; 01 dây chuyền vàng Sài Gòn loại 01 chỉ, 01 đôi bông tai bằng bạc, trị giá là 13.700.000 đồng.

Tổng tài sản trộm cắp là 48.200.000 đồng.

[2]. Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến

quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bà Đặng Thị T, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh của xã hội tại địa phương.

- Đối với bị cáo Nguyễn Quyết T là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn Văn N trộm cắp tài sản, bị cáo có nhiều tiền án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo và bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, xét mức hình phạt 04 năm tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn N là người chuẩn bị phương tiện, tham gia tích cực trong việc trộm cắp tìa sản, bị cáo đã có nhiều tiền án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo và bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, xét mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

Từ những phân tích trên, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N mà giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Vì không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST, ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyết T 04 (Bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 25 tháng 8 năm 2018).

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 25 tháng 8 năm 2018).

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Nguyễn Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/HSPT ngày 04/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:127/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về