Bản án 127/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 về đòi lại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 127/2019/DS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 291/2019/TLST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2019 về việc “Đòi lại tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2019/QĐXXST-DS ngày 14/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 1006/2019/QĐST-DS ngày 06/11/2019 giữa:

- Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn L, sinh năm 1990. Địa chỉ: Xóm 21, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ liên lạc: 409 đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Anh K, sinh năm 1998. (Văn bản ủy quyền ngày 11/7/2019). (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ liên lạc: 409 đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn:Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (vắng mặt không có lý do).

Địa chỉ: 189/72, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/4/2019, biên bản phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ, bản tự khai ông Ngô Anh K đại diện theo ủy quyền ông Trịnh Văn L trình bày:

Ông Trịnh Văn L là chủ Cửa hàng xe gắn máy M, tại địa chỉ số 1/176 Quốc lộ X, khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Ngày 13/10/2013, ông có bán cho bà Nguyễn Thị T 01 xe gắn máy honda màu đen, số khung 004911 số máy 5005029 với giá 25.069.000đồng. Hai bên có ký giấy thỏa thuận mua xe gắn máy trả góp ngày 13/10/2013 như sau: bà Nguyễn Thị T trả trước cho ông Trịnh Văn L số tiền 4.000.000đồng, số tiền còn lại 21.069.000đồng bà Nguyễn Thị T trả góp trong vòng 09 tháng, mỗi tháng trả góp ít nhất số tiền 2.341.000đồng và góp vào ngày 13 tây hàng tháng.

Sau đó bà Nguyễn Thị T không thực hiện đúng theo giấy thỏa thuận, không thực hiện việc trả góp cho ông, đã nhiều lần ông liên hệ nhưng bà Nguyễn Thị T lẫn tránh, trì hoãn không thanh toán tiền kéo dài cho đến nay. Nay ông yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả lại số tiền còn nợ là 21.069.000đồng, ông không yêu cầu lãi suất.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị T: Vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Văn L.

* Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định.

Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý của đương sự, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ông L khởi kiện bà Nguyễn Thị T đòi lại số tiền nợ mua xe trả góp chưa trả là 21.069.000đồng, quá trình giải quyết Tòa án mời bà Nguyễn Thị T nhiều lần đến làm việc, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà Nguyễn Thị T không đến. Theo quy định Tòa án đưa vụ ra xét xử theo quy định của pháp luật. Theo tài liệu chứng cứ là giấy thỏa thuận mua xe trả góp ông Trịnh Văn L với bà Nguyễn Thị T ngày 13/10/2013 có thể hiện chữ ký của bà Nguyễn Thị T (kèm theo chứng minh nhân dân mang tên bà Nguyễn Thị T; sổ hộ khẩu của gia đình bà Nguyễn Thị T (bản phôto) cho thấy việc mua bán xe trả góp giữa bà Nguyễn Thị T và ông L là có thật. Tòa án thực hiện đầy đủ đúng theo trình tự tố tụng để tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà Nguyễn Thị T không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến tự bỏ đi quyền lợi của mình. Đề nghị Tòa án căn cứ giấy thỏa thuận ngày 13/10/2013 mua xe gắn máy trả góp để xem xét giải quyết chấp nhận yêu cầu của ông L buộc bà Nguyễn Thị T trả lại số tiền 21.069.000đồng còn nợ cho ông Trịnh Văn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ông Trịnh Văn L yêu cầu đòi lại tài sản số tiền bà Nguyễn Thị T mua xe máy trả góp chưa trả. Đây là quan hệ tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản qua giao dịch dân sự theo khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Quan hệ pháp luật được xác định là “Đòi lại tài sản”.

Bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án tống đạt triệu tập, niêm yết nhiều lần để làm việc, công khai việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 207, Điều 208; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tiến hành đưa vụ án xét xử theo quy định của pháp luật.

Ngày 21/10/2019 ông Ngô Anh K có đơn xin xét xử vắng mặt ông Ngô Anh K theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Ông Trịnh Văn L là chủ Cửa hàng xe gắn máy M, tại địa chỉ số 1/176 Quốc lộ X, khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vào ngày 13/10/2013, ông Trịnh Văn L có bán cho bà Nguyễn Thị T 01 xe gắn máy honda màu đen, số khung 004911 số máy 5005029 với giá 25.069.000đồng. Hai bên có ký giấy thỏa thuận mua bán xe gắn máy trả góp ngày 13/10/2013: bà Nguyễn Thị T trả trước cho ông Trịnh Văn L số tiền 4.000.000đồng, số tiền còn lại 21.069.000đồng bà Nguyễn Thị T trả góp trong vòng 09 tháng, mỗi tháng trả góp ít nhất là số tiền 2.341.000đồng và góp vào ngày 13 tây hàng tháng. Bà Nguyễn Thị T không thực hiện đúng theo giấy thỏa thuận, không thực hiện việc trả góp cho ông Linh. Ông L yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả lại số tiền còn nợ là 21.069.000đồng, ông L không yêu cầu lãi suất.

Quá trình giải quyết Tòa án nhiều lần triệu tập nhưng bà Nguyễn Thị T không đến Tòa án làm việc, Tòa án đã niêm yết về thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ việc mua bán xe gắn máy trả góp, theo giấy thỏa thuận mua bán xe gắn máy trả góp ngày 13/10/2013 giữa ông L với bà Thanh nhưng bà Thanh cũng không có ý kiến và cung cấp bất cứ chứng cứ nào khác nên Tòa án căn cứ giấy thỏa thuận ngày 13/10/ 2013 để giải quyết vụ án.

Từ những nhận định trên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Văn L buộc bà Nguyễn Thị T trả cho ông Trịnh Văn L số tiền còn nợ là 21.069.000đồng.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 1.053.450 đồng (Một triệu không trăm năm mươi ba nghìn bốn trăm năm mươi đồng).

Hoàn trả cho ông Trịnh Văn L số tiền tạm ứng án phí 527.000đồng (Năm trăm hai mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai số 0004711 ngày 17/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 357, Điều 468, Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

TUYÊN XỬ:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Văn L về việc “Đòi lại tài sản” với bà Nguyễn Thị T.

Buộc bà Nguyễn Thị T có trách nhiệm thanh toán cho ông Trịnh Văn L số tiền 21.069.000đồng (Hai mươi mốt triệu không trăm sáu mươi chín nghìn đồng).

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 1.053.450 đồng (Một triệu không trăm năm mươi ba nghìn bốn trăm năm mươi đồng). Hoàn trả cho ông Trịnh Văn L số tiền tạm ứng án phí 527.000đồng (Năm trăm hai mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai số 0004711 ngày 17/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ông Trịnh Văn L và bà Nguyễn Thị T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự; người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 về đòi lại tài sản

Số hiệu:127/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về