Bản án 127/2018/HSPT ngày 21/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 127/2018/HSPT NGÀY 21/09/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 120/2018/HSPT ngày 30-8-2018 đối với bị cáo Hồ Văn L do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 19-7-2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị cáo có kháng cáo:

Hồ Văn L (Quẹo), sinh năm 1989 tại Bà Rịa Vũng Tàu ĐKHKTT: 106 E khu phố K, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; con ông Hồ Văn T, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1967; Vợ Nguyễn Thị Thanh T ( không đăng ký kết hôn) 01con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 52/2011/HSST ngày 30/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Hồ Văn L 05 năm tù về tội “ Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2011. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2013 (được đặc xá).

Bị bắt ngày 21/3/2018 (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án này còn có người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/8/2016 Hồ Văn L đến nhà của Đỗ Hạnh Đ để uống rượu cùng Đ và hai người bạn của Đ tên P và C (chưa rõ lai lịch). Trong lúc uống rượu L kể lại sự việc bị Lê Quốc B đánh vào tối hôm trước cho Đ, P và C cùng nghe. Nghe vậy, cả nhóm quyết định sau khi uống rượu xong sẽ đi tìm B để đánh trả thù. Đến 19 giờ cùng ngày, sau khi uống rượu xong Đạt vào nhà lấy 03 con dao tự chế đưa cho L, P và C mỗi người một con dao. Sau đó, cả nhóm đi trên hai xe mô tô chạy đến tiệm sửa xe Quốc B. Lúc này, trong tiệm sửa xe có Danh Quốc P, Nguyễn Văn L, Nguyễn Ngọc D và Thạch Thị Thu S (bạn của B) đang ngồi chơi trước tiệm. L cầm một con dao tự chế (dài khoảng 60cm, làm bằng kim loại) đi trước, khi thấy B đang đứng trước tiệm, L cầm dao xông đến chém một nhát trúng vào tay của B. Bị chém, B bỏ chạy ra phía sau nhà nhưng do nhà không có cửa sau nên L đuổi theo tiếp tục chém nhiều nhát trúng vào tay chân của B gây thương tích. Thấy B chảy nhiều máu nên L không chém nữa và đi ra cùng với Đ, P và C bỏ đi. Sau đó L cùng với Đ, P và C quay về nhà Đ cất hung khí (không thu hồi được) và L bỏ đi cho đến ngày 21/3/2018 ra đầu thú tại Công an thị trấn Long Điền, huyện Long Điền.

Trong lúc Lắm rượt đuổi chém B, P đang ngồi trên xe mô tô định chạy đi cũng bị một đối tượng trong nhóm của L (không xác định được) cầm dao chém một nhát vào mu bàn tay phải gây thương tích.

Ngoài ra B còn khai nhận ngoài L dùng dao chém gây thương tích. B còn bị một đối tượng trong nhóm L cầm dựa chém B một nhát trúng vào bắp tay của B và một đối tượng cầm đá ném trúng vào vai gây thương tích.

Vật chứng:

- 03 dao tự chế không thu hồi được - 01 cục đá bằng xi măng, mặt dưới có màu đất đỏ, mặt trên màu xám. Hiện Chi cục thi hành án đang quản lý.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 286/TgT ngày 19/9/2016 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh BR-VT kết luận: Thương tích của Lê Quốc Bảo như sau:

1.Dấu hiệu chính qua giám định: 07 vết thương phần mềm -Vết thương cẳng tay phải gây đứt gân duỗi cổ tay trụ đã điều trị. Hiện còn hạn chế vận động cổ tay ít -Vết thương kẽ ngón 1-2 bàn tay phải đang lành thương.

-Vết thương mặt sau cổ tay phải lành tốt.

-Vết thương khuỷu tay trái lành tốt.

-Vết thương mặt cổ tay trái gây đứt gân gấp cổ tay quay, đứt mô cái đã điều trị. Hiện vận động cổ tay còn hạn chế.

-Vết thương dưới đùi phải(sát gối) gây đứt cơ tứ đầu đùi đã điều trị. Hiện gối còn sưng nề, tầm vận động gối phải được trong khoảng từ 0 đến 125 -Vết thương phần mềm gối trái lành tốt.

2-Về vật gây thương tích, chiều hướng tác động và lực tác động:

-Thương tích 1: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ sau ra trước của cẳng tay.

-Thương tích 2: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ dưới lên trên của bàn tay - Thương tích 3: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới của cẳng tay.

- Thương tích 4: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trái sang phải, từ dưới lên trên của khuỷu tay.

- Thương tích 5: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên của cẳng tay.

- Thương tích 6: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trước ra sau.

- Thương tích 7: Phù hợp được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.

3- Về tỷ lệ thương tật của từng vết thương:

-Thương tật 1: tỷ lệ thương tật là 11%.

-Thương tật 2: tỷ lệ thương tật là 01%.

-Thương tật 3: tỷ lệ thương tật là 08%.

-Thương tật 4: tỷ lệ thương tật là 02%.

-Thương tật 5: tỷ lệ thương tật là 11%.

-Thương tật 6: tỷ lệ thương tật là 18%.

-Thương tật 7: tỷ lệ thương tật là 8%.

Căn cứ vào Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế Quy định về tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp ý, giám định pháp y tâm thần. tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 30%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 306/TgT ngày 05/10/2016 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh BR-VT kết luận: Thương tích của Danh Quốc P như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: 01 vết thương phần mềm bàn tay phải, đã lành thương. Hiện tại bàn tay còn sưng nề nhẹ, vận động các ngón tay còn hạn chế ít.

2. Về vật gây thương tích và chiều hướng tác động: Thương tích trên phù hợp với tổn thương cơ bản là “vết chém, băm, bổ’ được gây ra do sự tác động của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước của bàn tay.

Căn cứ vào thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế Quy định về tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp ý, giám định pháp y tâm thần. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 09%.

Taị bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn L (Quẹo) phạm tội “Cố ý gây thương tích”

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt: Hồ Văn L 03(ba) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2018.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 26-7-2018, bị cáo Hồ Văn L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Không đồng ý với mức án 03 năm 06 tháng tù, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình và lo cho con nhỏ.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua đó Đại diện Viện kiểm sát thấy rằng bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp, tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; sau khi nghe quan điểm Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị cáo Hồ Văn L làm gửi trong thời hạn quy định nên hợp lệ và được xem xét theo trình tự phúc thẩm như sau:

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Nhận thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để xác định như sau: Vào khoảng 21 giờ ngày 28-8-2016, tại tiệm sửa xe Quốc B địa chỉ khu phố Long Liên, thị trấn Long Điền, bị cáo Hồ Văn L đã dùng hung khí nguy hiểm chém 07 nhát vào người của Lê Quốc B. Kết quả giám định tỷ lệ thương tật là 30%.

Từ hành vi phạm tội nêu trên, cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo L phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hồ Văn L:

Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hồ Văn L thì thấy: Hành vi của bị cáo L rất nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác. Mặc dù giữa bị cáo L và người bị hại có mâu thuẫn nhỏ dẫn đến xô xát từ trước đã được giải tỏa, nhưng sau khi nhậu say bị cáo đã rủ thêm 03 người bạn nữa mang theo hung khí nguy hiểm để tìm B trả thù. Sau khi bị chém bị hại bị thương và đã bỏ chạy nhưng L vẫn đuổi theo dùng hung khí tiếp tục chém vào tay chân của bị hại. Hành vi của bị cáo L thể hiện sự coi thường pháp luật, có tính chất côn đồ và coi thường tính mạng và sức khỏe của người khác. Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 30/8/2011 đã bị Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt 05 năm tù về tội “ Cố ý gây thương tích”. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, rút kinh nghiệm cho bản thân nay lại tiếp tục phạm tội mới, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Hơn nữa, bị cáo gây thương tích cho bị hại 30% đây là mức thương tật cao nhất theo quy định tại khoản 2 điều 134 BLHS năm 2015 với mức hình phạt 02-06 năm tù, bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là dùng hung khí nguy hiểm và phạm tội có tính chất côn đồ . Vì vậy, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 03 năm 06 tháng tù là đã chiếu cố nhiều cho bị cáo.

Xét thấy, khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ nào mới theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo nên giữ nguyên hình phạt của cấp sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lắm phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hồ Văn L, giữ nguyên bản án sơ thẩm:

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn L (Quẹo) phạm tội “Cố ý gây thương tích”

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt: Hồ Văn Lắm 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2018.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lắm phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 127/2018/HSPT ngày 21/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:127/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về