Bản án 126A/2019/HS-PT ngày 30/09/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 126A/2019/HS-PT NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30/9/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 135/2019/TLPT-HS ngày 27/6/2019 đối với các bị cáo T, X, H, D, T1, Q2, Q, T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HS-ST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

- Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:

1. Hoàng Văn H, sinh năm 1976 tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Hoàng Văn C, sinh năm 1941(đã chết); mẹ đẻ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1947(đã chết); vợ: Phạm Thị G, sinh năm 1977; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Năm 2004 bị Công an huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi "Đánh bạc"; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. Từ Văn T, sinh năm 1977 tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Sán Dìu; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Từ Văn S, sinh năm 1932 (đã chết); mẹ đẻ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1939 (đã chết); vợ: Nguyễn Thị X, sinh năm 1979; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

3. Tô Văn Q, sinh năm 1985 tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Tô Văn T, sinh năm 1959; mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; vợ: Nông Thị H, sinh năm 1986; bị cáo có 02 con; tiền án: Tại Bản án số 38/2017/HSST ngày 11/10/2017, Tô Văn Q bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 09 tháng tù về tội "Đánh bạc"; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án số 21/2014/HSST ngày 15/4/2014 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng S1 xử phạt 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Đánh bạc"; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2018, tạm giam từ ngày 14/9/2018 đến ngày 04/12/2018 được áp dụng biện pháp cho bảo lĩnh; Có mặt.

4. Triệu Văn D, sinh năm 1986 tại huyện H, tỉnh Lạng S1.

Nơi cư trú: Xóm Làng Cà, xã Đồng T, huyện H, tỉnh Lạng S1; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Triệu Văn L, sinh năm 1962; mẹ đẻ: Nông Thị O, sinh năm 1962; vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1984; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Năm 2012 bị Công an huyện Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "Trộm cắp tài sản"; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

5. Triệu Q T, sinh năm 1986; tại huyện H, tỉnh Lạng S1;

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Triệu Văn N, sinh năm 1961; mẹ đẻ: Nguyễn Thị Y, sinh năm 1967; vợ: Lê Thị T, sinh năm:1988, bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/9/2018 đến ngày 14/9/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

6. Nguyễn Văn Q, sinh năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng S1;

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Nguyễn Văn T, sinh năm 1965; mẹ đẻ: Sầm Thị K, sinh năm 1970; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2018 đến ngày 14/9/2018 bị áp dụng bịện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

7. Liểu Văn X, sinh năm 1991 tại Huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Liểu Văn D, sinh năm 1958; mẹ đẻ: Hoàng Thị N, sinh năm 1955; vợ: Tô Thị T, sinh năm 1992; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

8. Đinh Công T, sinh năm 1988 tại huyện H, tỉnh Lạng S1.

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; bố đẻ: Đinh Văn L, sinh năm 1955 (đã chết); mẹ đẻ: Hứa Thị N, sinh năm 1955; vợ: Lê Thùy T, sinh năm 1990; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

- Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1991. Vắng mặt. Đa chỉ: Thôn R, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn S, sinh năm 1982. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn R, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

3. Họ và tên: Bùi Quốc L, sinh năm 1980. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

4. Họ và tên: Lý Văn S1, sinh năm 1965. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

5. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1992. Có mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1963. Có mặt. Địa chỉ: Thôn H, xã V, huyện L, tỉnh Lạng S1.

1. Anh Nguyễn Bá X1, sinh năm 1971. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

2. Chị Chu Thị Â, sinh nưm 1986. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng S1.

3. Anh Hoàng Đức Q, sinh năm 1982. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng S1.

4. Anh Bùi Quốc T2, sinh năm 1971. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

5. Anh Nguyễn Văn Luận, sinh năm 1988. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn H, xã V, huyện L, tỉnh Lạng S1.

6. Anh Ngô Tuấn L1, sinh năm 1986. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

7. Anh Đào Văn H1, sinh năm 1978. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn R, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

8. Anh Hứa Hồng C, sinh năm 1987. Vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn L, xã Đồng T, huyện Lữu Lũng, tỉnh Lạng S1.

9. Anh Hoàng Văn B, sinh năm 1975. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn R, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

10. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1960. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

11. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960. Vắng mặt. Đa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

12. Đào Minh L, sinh năm 1977. Vắng mặt. Đa chỉ: Thôn C, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

13. Anh Phạm X C2, sinh năm 1972. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

14. Anh Hoàng Văn H2, sinh năm 1971. Có mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

15. Chị Hoàng Thị H3, sinh năm 1974. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

16. Ông Trần Văn K, sinh năm 1957. Có mặt. Đa chỉ: Thôn Suối Dọc, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Chí H3, sinh năm 1971. Có mặt. Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Vương Văn T2, sinh năm 1976. Có mặt. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 15 phút ngày 09/9/2018, tại nhà Hoàng Văn H, sinh năm 1976 ở thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Tổ công tác Công an huyện Y, tỉnh Bắc Giang bắt quả tang vụ đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, được thua bằng tiền. Các đối tượng tham gia đánh bạc bị bắt giữ gồm: Triệu Q T, sinh năm 1986 ở thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1; Nguyễn Văn S, sinh năm 1982 và Nguyễn Văn T1, sinh năm 1991 đều ở thôn R, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Các đối tượng Tô Văn Q, sinh năm 1985, Bùi Quốc L, sinh năm 1980, Lý Văn S1, sinh năm 1965, Nguyễn Văn H, sinh năm 1992, Từ Văn T, sinh năm 1977 cùng ở thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nguyễn Văn Q, sinh năm 1989, Đinh Công T sinh năm 1988 cùng ở thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1; Liểu Văn X, sinh năm 1991 ở thôn A, xã Đ, huyện Y và Triệu Văn D ở xóm Làng Cà, xã Đồng T, huyện H, tỉnh Lạng S1 bỏ chạy thoát. Tang vật thu giữ gồm: Số tiền thu tại chiếu bạc 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng); Thu của Triệu Q T 3.250.000đ (ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), (trong đó thu trên tay T 3.200.000 đồng, thu trong người T1 50.000 đồng); thu của Nguyễn Văn S 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng); thu trên tay Nguyễn Văn T1 4.730.000đ (bốn triệu bẩy trăm ba mươi nghìn đồng); Chu Thị Â (không tham gia đánh bạc) giao nộp 100.000 (một trăm nghìn đồng); thu trong người Ngô Tuấn L1 (không tham gia đánh bạc) 7.070.000đ (bẩy triệu không trăm bẩy mươi nghìn đồng); 01 (một) chiếu nhựa đôi, 05 (năm) Q2 vị, 01(một) bảng vị, một số mảnh sứ vỡ, 48 (bốn mươi tám) Q2 bài tú lơ khơ, 06 (sáu) chiếc điện thoại di động và 10 (mười) xe mô tô các loại, 13 (mười ba) chiếc dép các loại, 01 (một) dây chuyền thu của Ngô Tuấn L1.

Trước khi đưa các đối tượng vào Nhà tạm giữ Công an huyện Y đã thu giữ số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) của Nguyễn Văn T1; Thu giữ của Triệu Q T 01 (một) dây truyền kim loại màu trắng.

Trong các ngày từ ngày 10/9/2018 đến ngày 13/9/2018, lần lượt các đối tượng: Tô Văn Q, Nguyễn Văn Q, Từ Văn T và Lý Văn S1 đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh Bắc Giang đầu thú, khai nhận hành vi đánh bạc vào ngày 09/9/2018 cùng các đối tượng.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 14 giờ ngày 09/9/2018, Tô Văn Q đi xe mô tô đến nhà Hoàng Văn H. Lúc này, có một số người đang ngồi trên phản gỗ nhà H. Q nghe thấy có người nói “cắt Q2 đi” thì Q nói “ai cắt Q2 đi” đồng thời Q mở tủ nhà H lấy ra 01 bìa sách và 01 bút ra làm bảng vị, sau đó Q xuống bếp nhà H lấy 01 bát, 01 đĩa sứ. Triệu Văn D xuống bếp lấy dao làm 04 Q2 vị bằng mảnh tre làm công cụ đánh bạc. Bắt đầu tham gia đánh bạc có: Tô Văn Q, Từ Văn T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn H, sinh năm 1992 ở thôn Đ và Liểu Văn X, sinh năm 1991 ở thôn Ao Gáo, cùng ở xã Đ, huyện Y. Các đối tượng ngồi ở chiếu trải trên nền nhà H cùng nhau đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền.

Cách thức đánh bạc các đối tượng đã sử dụng là: Cửa chẵn ở phía bên phải còn cửa lẻ ở phía bên trái người xóc cái, mỗi ván bạc người chơi đặt tiền tối thiểu là 50.000 đồng, còn cao hơn không giới hạn. Bắt đầu mỗi ván bạc, người xóc cái cầm đĩa đựng 04 Q2 vị (đã úp bát lên) xóc nhiều lần rồi đặt xuống chiếu bạc, sau khi người chơi đặt tiền vào hai cửa chẵn, lẻ xong thì mở bát. Nếu có 03 Q2 vị mặt đen, 01 Q2 vị mặt trắng hoặc 03 Q2 vị mặt trắng, 01 Q2 vị mặt đen ngửa lên thì ván đó là lẻ. Lúc này những người đã đặt tiền ở cửa lẻ thắng bạc và được số tiền tương ứng số tiền họ đã đặt. Nếu có 02 hoặc 04 Q2 vị có mặt trắng hoặc mặt đen ngửa lên thì ván đó là chẵn. Lúc này những người đã đặt tiền ở cửa chẵn thắng và được số tiền tương ứng với số tiền họ đã đặt. Các đối tượng đánh được, thua với người xóc cái, trong mỗi ván bạc, người xóc cái lấy tiền bên thua giam cho bên thắng, nếu giam còn thừa thì xóc cái được số tiền thừa đó, nếu giam thiếu thì xóc cái phải bù cho đủ. Ngoài ra người tham gia đánh bạc còn có thể đánh vào bảng vị do Q cầm. Bảng vị được làm từ bìa sách được kẻ thành 04 ô vuông lớn, trong đó: 01 ô có 03 ô tròn màu đen và 01 ô tròn màu trắng; 01 ô có 03 ô tròn màu trắng và 01 ô tròn màu đen; 01 ô có 04 ô tròn màu đen; 01 ô có 04 ô tròn màu trắng. Trong đó, đối với 02 ô vuông (ô có 03 ô tròn đen, 01 ô tròn trắng và ô có 03 ô tròn trắng, 01 ô tròn đen) thì tỷ lệ được thua là 1/3 (người chơi đặt 10.000 đồng nếu thắng thì được 30.000 đồng của người cầm bảng vị, nếu thua thì mất 10.000 đồng đó cho người cầm bảng vị); đối với 02 ô vuông còn lại (ô có 04 ô tròn đen và 04 ô tròn trắng) thì tỷ lệ được thua là 1/10 (người chơi đặt 10.000 đồng mà thắng thì được 100.000 đồng của người cầm bảng vị, nếu thua thì mất 10.000 đồng đó cho người cầm bảng vị). Kết quả xác định thắng, thua của bảng vị phụ thuộc vào kết quả khi mở bát trong mỗi ván bạc.

Các đối tượng đánh bạc được một lúc thì Bùi Quốc L, sinh năm 1980 ở thôn Đ, xã Đ, huyện Y, Lý Văn S1, Nguyễn Văn Q, Triệu Q T, Nguyễn Văn S, Đinh Công T, sinh năm 1988 ở thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng S1 đến và tham gia đánh bạc. Lúc này, Hoàng Văn H đi vào đứng phía sau bên trái Tô Văn Q và nói “Anh em cho xin tiền chiếu” thì Q bảo “Anh em mỗi người bỏ ra năm mươi nghìn cho chủ nhà” thì T, T1, S1, Q2, T khai mỗi người nộp 50.000 (năm mươi nghìn đồng) tiền hồ đưa cho Q, sau đó Q đưa hết số tiền này cho H. Tuy nhiên, Q khai chỉ nhận 200.000 (hai trăm nghìn đồng) của các đối tượng đưa cho rồi đưa cho H.

Từ Văn T xóc cái cho các đối tượng đánh bạc từ đầu đến 15 giờ 15 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang.

Ngày 17/10/2018, Triệu Văn D giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), là tiền D sử dụng đánh bạc đã cầm bỏ chạy khi bị bắt quả tang. Ngày 10/01/2019, Hoàng Văn H giao nộp cho Cơ quan điều tra 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Cơ quan điều tra chứng minh tổng số tiền các đối tượng đã sử dụng đánh bạc là 10.930.000đ (mười triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng), bao gồm: 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng) thu tại chiếu bạc; 4.730.000đ (bốn triệu bẩy trăm ba mươi nghìn đồng) thu của Nguyễn Văn T1; 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng) thu của Triệu Q T; 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) thu của Nguyễn Văn S; 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) do Triệu Văn D giao nộp; 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) do Tô Văn Q đưa cho Hoàng Văn H.

Ti bản cáo trạng số 20/CT- VKS- YT ngày 28/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố các bị cáo Từ Văn T, Tô Văn Q, Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn S, Liểu Văn X, Bùi Quốc L, Đinh Công T, Lý Văn S1 và Nguyễn Văn H về tội “Đánh bạc”, áp dụng khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Truy tố Hoàng Văn H về tội “Gá bạc”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HS - ST ngày 23/5/2019 của TAND huyện Y, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Gá bạc”. Các bị cáo Từ Văn T, Tô Văn Q, Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T phạm tội “Đánh bạc”.

1. Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 322, Điều 35; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự (BLHS); Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS): Xử phạt Hoàng Văn H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án. Phạt tiền bị cáo Hoàng Văn H 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17, Điều 35; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 53, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Xử phạt Tô Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án, nhưng được trừ cho bị cáo 02 (hai) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 10/9/2018 đến ngày 04/12/2018). Phạt tiền bổ sung bị cáo Tô Văn Q 10.000.000đ (mười triệu đồng).

3. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17, Điều 35, Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Xử phạt Từ Văn T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án; Phạt tiền bổ sung bị cáo Từ Văn T 10.000.000đ (mười triệu đồng).

4. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17 Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS:

- Xử phạt Triệu Văn D 8 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án.

- Xử phạt Triệu Q T 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án, nhưng trừ cho bị cáo 05 (năm) ngày bị tạm giữ (từ ngày 09/9/2018 đến ngày 14/9/2018).

5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Xử phạt Nguyễn Văn Q 7 (bẩy) tháng tù nhưng trừ cho bị cáo 03 (ba) ngày tạm giữ (từ ngày 11/9/2018 đến ngày 14/9/2018) thời hạn tù tính từ ngày bắt hoặc tự nguyện thi hành án.

6. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Phạt tiền Liểu Văn X 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng). Phạt tiền Đinh Công T 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Ngoài ra bản án còn T phạt các bị cáo khác, T xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm xong, ngày 05/6/2019 bị cáo Hoàng Văn H kháng cáo kêu oan, bị cáo Từ Văn T kháng cáo xin hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung. Bị cáo Tô Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt bổ sung. Ngày 06/6/2019, bị cáo Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q đều kháng cáo xin hưởng án treo. Ngày 06/6/2019, bị cáo Liểu Văn X và Đinh Công T đều kháng cáo xin giảm hình phạt tiền.

Ngày 05/6/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Y có văn bản kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-YT đối với bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HSST ngày 23/5/2019 nêu trên, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử vụ án trên theo thủ tục phúc thẩm theo H2 không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo Liểu Văn X mà áp dụng hình phạt khác không phải là tù có thời hạn đối với bị cáo X. Không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo Hoàng Văn H, Tô Văn Q và Từ Văn T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo có kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo với lý do:

Bị cáo T trình bày: Gia đình bị cáo hoàn cảnh khó khăn, con bé, bị cáo là người dân tộc Sán Dìu, bà nội bị cáo được tặng thưởng huân huy chương. Bị cáo đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y về không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo xin hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con nhỏ vì bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ thường xuyên ốm đau.

Bị cáo Q trình bày: Mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là nặng, bị cáo là người chuẩn bị công cụ, cầm bảng vị. Bị cáo đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát về không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Triệu Văn D trình bày: Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, 02 con còn nhỏ, bị cáo dân tộc Nùng. Án sơ thẩm xét xử là đúng người, đúng tội.

Bị cáo Triệu Quang T trình bày: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, 03 con còn nhỏ, bị cáo dân tộc Nùng, nhận thức pháp luật hạn chế.

Bị cáo Nguyễn Văn Q trình bày: Bố mẹ bị cáo đã già, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo chỉ sử dụng 1.400.000đ để đánh bạc.

Bị cáo Liểu Văn X trình bày: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo chỉ sử dụng 50.000đ để đánh bạc.

Bị cáo Đinh Công T trình bày: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già, 02 con còn nhỏ, bị cáo chỉ sử dụng 50.000đ để đánh bạc.

Bị cáo Hoàng Văn H trình bày: Bị cáo bị oan, không phạm tội “Gá bạc”. Buổi sáng ngày 9/9/2018, bị cáo đi họp cho con, đến khoảng 11 giờ thì trở về nhà, khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì anh Vương Văn T2 mời đi ăn trưa tại nhà hàng 88 thuộc xã Bố Hạ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, bị cáo đi cùng xe ô tô của anh Tâm đến nhà hàng 88 và bắt đầu cùng nhau ăn uống vào khoảng 12 giờ 30 phút, ăn uống khoảng hơn một Tg đồng hồ thì kết thúc, bị cáo đi cùng xe ô tô của anh Tâm đến ngã tư thị trấn Bố Hạ cách nhà hàng 88 khoảng 1km rồi xuống xe, khi bị cáo xuống xe, anh Nguyễn Chí H3 đã chờ sẵn và đưa bị cáo sang nhà chị Y ở thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang, nhưng chị Y không có nhà, bị cáo có gọi điện thoại cho chị Y nhưng chị Y trả lời không về được, ngay sau đó bị cáo cùng anh Nguyễn Chí H3 quay trở về thì bị cáo nhận được điện thoại của anh Hoàng Văn H2 báo tin ở nhà có nhiều Công an đến, sau khi nhận được điện thoại của anh Hồng, anh H2 đưa bị cáo về đến ngã ba gần cổng nhà thì bị cáo xuống xe đi bộ về nhà. Trên đường đi từ thị trấn B đến nhà chị Y và trên đường từ nhà chị Y trở về nhà bị cáo ở Đ, Đ thì anh H2 và bị cáo đi liên tục, không ngừng nghỉ, khi về nhà, bị cáo ở nhà, không đi đâu khác. Thời gian anh H2 đón bị cáo ở thị trấn Bố Hạ, thời gian từ nhà chị Y trở về nhà, bị cáo không nhớ là khoảng mấy giờ, khoảng cách từ thị trấn Bố Hạ đến nhà chị Y, khoảng cách từ nhà chị Y về đến nhà, bị cáo không biết là bao nhiêu ki lô mét, không nhớ là đi hết bao nhiêu thời gian.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh anh Nguyễn Chí H3 trình bày: Buổi trưa ngày 9/9/2018, anh có đón Hoàng Văn H tại ngã tư thị trấn Bố Hạ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang để đưa H sang nhà chị Y Toản ở thôn M, xã T, huyện L, Bắc Giang, khi đến nhà chị Y, chị Y không có nhà nên anh H2 kèm H quay về nhà H ở Đ, Đ, Y, Bắc Giang. Thời gian anh H2 đón H ở thị trấn B, thời gian anh H2 đến nhà chị Y và quay trở về khoảng mấy giờ anh H2 không nhớ, khoảng cách từ thị trấn B đến nhà chị Y, từ nhà chị Y về nhà H ở Đ, Đ khoảng bao nhiêu ki lô mét anh H2 không ước lượng được, thời gian đi hết khoảng bao nhiêu phút anh H2 không nhớ. Khi đưa H về đến cổng H xuống xe đi bộ về nhà, còn anh H2 về nhà anh H2 ở T, Đ, Y, Bắc Giang cách đó khoảng hơn 1km. Anh Nguyễn Chí H3 khẳng định lời khai của anh tại phiên tòa là trung thực. Tại phiên tòa anh H2 giải thích việc anh không nhớ hết các tình tiết có liên quan đến vụ án là do thời gian đã lâu. Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của anh H2 tại bút lục số 161,162,163,164,165,166, anh H2 đều khẳng định lời khai của anh tại cơ quan điều tra là trung thực.

Anh Vương Văn T2 trình bày: Khi anh cùng H và một số người khác ăn trưa tại nhà hàng 88 xong khoảng 12 giờ ngày 09/9/2018, H ngồi xe ô tô của anh Tâm đi đến ngã tư thị trấn Bố Hạ thì H xuống xe.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Rút kháng nghị đối với bị cáo X, giữ nguyên kháng nghị đối với bị cáo H, Q, T. Xét thấy các bị cáo H, Q, T là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, án sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo này là không đảm bảo sự công bằng giữa các bị cáo khác và không đúng với quy định của pháp luật nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Y về việc không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo H, Q, T. Bị cáo X và bị cáo T đều sử dụng 50.000đ để đánh bạc, bị cáo X là hộ nghèo, Tòa án cấp sơ thẩm phạt tiền bị cáo X 25 triệu đồng, bị cáo T 20 triệu đồng, để đảm bảo công bằng giữa hai bị cáo X và T thì đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo X về giảm hình phạt tiền cho bị cáo X còn 20 triệu đồng. Án sơ thẩm xử các bị cáo H, D, T1, Q, T là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo H, không chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Q ,bị cáo T1 và bị cáo D, không chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt tiền của bị cáo T. Chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo T và bị cáo Q2, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho các bị cáo T và Q2 được hưởng án treo.

Các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn Q, Tô Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T không có tranh luận gì.

Bị cáo Hoàng Văn H tranh luận: Lời khai của anh H2 tại phiên tòa hôm nay là đúng. Đề nghị Cơ quan T hành tố tụng chứng minh thời gian, địa điểm ngày hôm 09/9/2018 bị cáo đi đâu, làm gì. Chứng minh ai là người hợp đồng với bị cáo để cho các đối tượng đến nhà đánh bạc, các bị cáo tự đến không được sự đồng ý của bị cáo. Đấy không phải là nhà của bị cáo.

Viện kiểm sát đối đáp với quan điểm của bị cáo H: Cơ quan điều tra đã T hành thực nghiệm điều tra và đã lấy lời khai của các bị cáo khác, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và của người làm chứng. Có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội “Gá bạc”.

Các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn Q, Tô Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T nói lời sau cùng đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được H sự khoan hồng của pháp luật. Bị cáo Hoàng Văn H đề nghị HĐXX xem xét vì bị cáo bị oan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Văn H, Tô Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T đã nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo:

Khong 14 giờ ngày 9/9/2018, Tô Văn Q đi xe mô tô đến nhà Hoàng Văn H. Lúc này, có một số người đang ngồi trên phản gỗ nhà H. Q nghe thấy có người nói “cắt Q2 đi” thì Q mở tủ nhà H lấy ra 01 bìa sách và 01 bút ra làm bảng vị, sau đó Q xuống bếp nhà H lấy 01 bát, 01 đĩa sứ mang lên để trên chiếu trải trong nhà H để đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa, đồng thời Q bảo Từ Văn T xóc cái cho mọi người đánh bạc, Q cầm bảng vị đồng thời đánh bạc cùng các các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn S, Liểu Văn X, Bùi Quốc L, Đinh Công T, Lý Văn S1, Nguyễn Văn H.

Từ Văn T khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 09/9/2018, T đi bộ xuống nhà H, tại nhà H, T có gặp Tô Văn Q và một số người khác, khi các đối tượng chuẩn bị bát, đĩa, Q2 vị để trên chiếu trải trong nhà H, Tô Văn Q là người bảo T xóc cái, T đồng ý xóc cái đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa như nội dung Tô Văn Q đã khai nhận.

Triệu Văn D khai nhận: Khi có người nói "ai cắt Q2 đi" thì D xuống bếp nhà H đã thấy có một T1 tre, một con dao bài, D đã chẻ mỏng T1 tre, dùng một đoạn săm xe bằng cao su đốt lên để bôi đen một mặt, sau đó cắt 04 Q2 vị có kính thước khoảng 1cm x1,2cm mang lên để trong bát đĩa đã để sẵn trên chiếu trong nhà H sau đó D tham gia đánh xóc đĩa cùng các con bạc khác.

Các bị cáo Triệu Qung T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn S, Liểu Văn X, Bùi Quốc L, Đinh Công T, Lý Văn S1, Nguyễn Văn H đều thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa tại nhà Hoàng Văn H như nội dung bản cáo trạng đã truy tố với tổng số tiền là 10.930.000đ. Trong đó,Từ Văn T sử dụng 1.000.000đ, Tô Văn Q sử dụng 500.000đ; Đinh Công T sử dụng 50.000 đ; Triệu Qung T sử dụng 4.000.000đ; Nguyễn Văn T1 sử dụng 2.830.000đ; Nguyễn Văn S sử dụng 650.000đ; Nguyễn Văn Q sử dụng 1.400.000đ; Lý Văn S1 sử dụng 100.000đ; Liểu Văn X sử dụng 50.000đ; Nguyễn Văn H sử dụng 200.000đ; Triệu Văn D sử dụng 700.000đ, Bùi Quốc L sử dụng 200.000đ. Tổng số tiền chứng minh các bị cáo sử dụng đánh bạc là 10.930.000đ (mười triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng), bao gồm: 2.600.000đ (hai triệu sáu trăm nghìn đồng) thu tại chiếu bạc; 4.730.000đ (bốn triệu ba trăm bẩy mươi nghìn đồng) thu của Nguyễn Văn T1; 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng) thu của Triệu Quang T; 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) thu của Nguyễn Văn S; 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) do Triệu Văn D giao nộp; 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) Hoàng Văn H giao nộp là tiền hồ do Tô Văn Q đưa cho.

Như vậy hành vi của các bị cáo Tô Văn Q, Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T đã phạm vào tội “Đánh bạc”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử các bị cáo Tô Văn Q, Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Mặc dù bị cáo H không nhận hành vi gá bạc. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của anh Nguyễn Chí H3 xác định khi anh H2 và H bắt đầu từ nhà chị Y trở về nhà H khoảng 13 giờ ngày 09/9/2018. Kết quả thực nghiệm điều tra ngày 21/01/2019, việc thực nghiệm điều tra ngày 21/01/2019 cơ quan điều tra đã cho anh H2 trực tiếp đi xe mô tô từ thị trấn Bố Hạ đến nhà chị Y ở thôn Mải, xã Tân T1, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Khi anh H2 điều khiển xe đi qua nhà chị Y khoảng 70m thì dừng lại, khoảng cách từ thị trấn Bố Hạ đến vị trí anh H2 dừng xe để quay về là 13km. Theo lời khai của anh H2 khi đi qua nhà chị Y không có ai ở nhà nên anh H2 dừng xe và quay về xã Đ, huyện Y. Anh H2 điều khiển xe đi đến ngã ba cách nhà H khoảng 50m thì anh H2 dừng xe cho H xuống, H đi bộ về nhà. Khoảng cách từ vị trí anh H2 quay đầu xe về đến vị trí anh H2 dừng xe cho H xuống xe đi bộ về nhà là 18km. Khoảng thời gian anh H2 xuất phát từ thị trấn Bố Hạ, Y đến khi về vị trí dừng xe cho H xuống xe tại Đèo Cà, Đồng Hưu là 61 phút. Tại phiên tòa bị cáo H cũng thừa nhận sau khi anh H2 đưa về đến cổng thì H xuống xe đi bộ về nhà sau đó H không đi đâu đến một địa điểm nào khác. Như vậy có đủ sơ sở để khẳng định trong khoảng thời gian từ 14 giờ đến 15 giờ 15 phút ngày 9/9/2018, khi các đối tượng đánh bạc đến nhà H và trong thời gian các đối tượng đánh xóc đĩa thì H có mặt ở nhà là phù hợp với lời khai của anh Vương Văn T2, anh Nguyễn Chí H3, phù hợp với lời khai của các bị cáo Tô Văn Q, Từ Văn T, Triệu Văn D, Nguyễn Văn S, Triệu Quang T, Nguyễn Văn T1, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra, như vậy có căn cứ xác định bị cáo H đã dùng nhà ở thuộc quyền quản lý của mình để cho các bị cáo Từ Văn T, Tô Văn Q, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn S, Liểu Văn X, Bùi Quốc L, Đinh Công T, Lý Văn S1 và Nguyễn Văn H đánh bạc vào buổi chiều ngày 9/9/2018 và H đã nhận số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền hồ. Lời bào chữa của bị cáo tại phiên tòa về thời gian buổi sáng ngày 9/9/2018 bị cáo đi họp cho con, nội dung tin nhắn từ số điện thoại + 841636851742 không đủ cơ sở để chứng minh bị cáo không phạm tội. Ngày 21/01/2019, Cơ quan điều tra T hành thực nghiệm điều tra đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Hoàng Văn H phạm vào tội "Gá bạc" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự. Án sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai, do vậy kháng cáo kêu oa của bị cáo H là không có cơ sở để chấp nhận.

[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Y và kháng cáo của các bị cáo thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng, gây mất trật tự xã hội, tạo dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng tới hạnh phúc và kinh tế cũng như sản xuất của nhiều gia đình, là cơ sở phát sinh nhiều tội phạm khác.

3.1. Đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Y:

Tại phiên tòa hôm nay Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang rút một phần kháng nghị đối với bị cáo Liểu Văn X là đúng quy định pháp luật nên cần chấp nhận.

Các bị cáo Hoàng Văn H, Tô Văn Q, Từ Văn T đều là các đối tượng được H chế độ ưu đãi của Nhà nước đối với hộ nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn… Các bị cáo đều được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo biên bản xác minh thì các bị cáo Tô Văn Q, Từ Văn T không có việc làm ổn định, không xác định được điều kiện kinh tế của gia đình, bị cáo Hoàng Văn H thuộc hộ nghèo. Vì vậy, việc áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo H, Q, T là trái với chính sách của Đảng và Nhà nước, không phù hợp với các quyết định, Nghị định của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hơn nữa trong vụ án này có các bị cáo khác như bị cáo Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn H cũng là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, bị cáo Song và S1 thuộc hộ cận nghèo. Án sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo này. Do vậy, để đảm bảo sự công bằng giữa các bị cáo và đảm bảo thực hiện đúng các quy định tại Điều 58 BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm thì cần chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-YT ngày 05/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y về việc không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Hoàng Văn H, Tô Văn Q và Từ Văn T. Tuy nhiên, trong trường hợp này, căn cứ Điều 357 BLTTHS không phải sửa bản án sơ thẩm khi chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Y mà Tòa án huyện Y cần rút kinh nghiệm.

3.2. Đối với kháng cáo của các bị cáo thì thấy:

Xét về vai trò các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Về hành vi đánh bạc bị cáo Tô Văn Q là người có vai trò chính, bản thân bị cáo Q là người chuẩn bị công cụ, lấy bát, đĩa, làm bảng vị, bị cáo Q là người bảo bị cáo T thực hiện việc xóc cái cho các đối tượng khác đánh bạc. Trong suốt quá trình đánh bạc bị cáo Q là người cầm bảng vị đồng thời cũng tích cực tham gia đánh cửa chẵn, lẻ cùng các bị cáo khác. Sau vai trò của bị cáo Q là vai trò của bị cáo Từ Văn T, bị cáo Từ Văn T là người xóc cái từ đầu cho đến khi bị bắt, cân đối số tiền hai của chẵn, lẻ để đánh bạc với các bị cáo khác. Sau vai trò của bị cáo T là bị cáo Triệu Văn D, Triệu Quang T. Các bị cáo D, T1 có vai trò ngang nhau, bị cáo D làm Q2 vị, sử dụng số tiền 700.000đ (Bẩy trăm nghìn đồng) để đánh bạc ngay từ khi bắt đầu cho đến khi lực lượng Công an bắt giữ; bị cáo Triệu Quang T tham gia đánh bạc sau nhưng bị cáo sử dụng 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) để đánh bạc là số tiền lớn so với các bị cáo khác. Sau vai trò của bị cáo D, T1 là bị cáo Nguyễn Văn Q, bị cáo Q2 vào đánh bạc sau và sử dụng số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) để đánh bạc.

Xét về nhân thân các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy, bị cáo Tô Văn Q, bị cáo Triệu Văn D, bị cáo Hoàng Văn H là những người có nhân thân xấu; bị cáo Q có tiền án bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội đánh bạc tại Bản án số 38/2017/HSST ngày 11/10/2017; bị cáo Q còn bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng S1 xét xử 04(bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 21/2014/HSST ngày 15/4/2014. Bị cáo Triệu Văn D bị Công an huyện Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản năm 2012. Bị cáo Hoàng Văn H bị Công an huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc vào năm 2004.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tô Văn Q có tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T, Hoàng Văn H Học không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Tô Văn Q, Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Nguyễn Văn Q đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Từ Văn T, Triệu Văn D, Triệu Q T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Đinh Công T, Hoàng Văn H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Tô Văn Q, Nguyễn Văn Q, Từ Văn T đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Án sơ thẩm đã xem xét vai trò mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ phạt bị cáo H 01 năm 02 tháng tù, bị cáo Q 01 năm 03 tháng tù, bị cáo D 08 tháng tù, bị cáo T1 08 tháng tù và buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội là có căn cứ phù hợp pháp luật và đảm bảo đấu tranh phòng chống loại tội phạm đánh bạc ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Lý do kháng cáo mà các bị cáo đưa ra để xin hưởng án treo và giảm nhẹ hình phạt cũng không thỏa mãn yêu cầu của pháp luật. Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt tiền của bị cáo T là không có căn cứ để chấp nhận.

Vì vậy, Hội đồng xét xử cần bác đơn kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn H, Tô Văn Q, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Đinh Công T giữ nguyên bản án sơ thẩm là đúng quy định và phù hợp pháp luật.

Đi với kháng cáo của bị cáo Q đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền là có căn cứ, lý do theo như phân tích ở trên trong phần xét kháng nghị của Viện kiểm sát huyện Y, do vậy HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Q về không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Đi với kháng cáo của bị cáo X đề nghị giảm hình phạt tiền, HĐXX thấy: Bị cáo X và bị cáo Đinh Công T đều sử dụng 50.000đ để đánh bạc, trong khi đó bị cáo X thuộc hộ nghèo, bị cáo T bị phạt tiền 20 triệu đồng, bị cáo X bị phạt tiền 25 triệu đồng là hình phạt chính. Do vậy, để đảm bảo công bằng giữa các bị cáo X và T thì HĐXX thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo X về việc xin giảm nhẹ hình phạt tiền xuống còn 20 triệu đồng.

Đi với các bị cáo Nguyễn Văn Q, Từ Văn T được H nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo T được H tình tiết giảm nhẹ nữa tại khoản 2 Điều 51 BLHS, bị cáo Q2 có số tiền đánh bạc ít 1.400.000đ, các bị cáo có nhân thân tốt, xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú ổn định, là dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết buộc phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho cải tạo tại địa phương có thời gian thử thách cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành con người tốt. Bị cáo có đủ điều kiện hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ phân tích trên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Từ Văn T, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo để phù hợp với các quy định của pháp luật và tương xứng tính chất mức độ hành vi phạm tội.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do kháng cáo của các bị cáo Triệu Văn D, Triệu Q T, Đinh Công T không được chấp nhận nên các bị cáo Triệu Văn D, Triệu Quang T, Đinh Công T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo điểm a, khoản 2, Điều 23- Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo Hoàng Văn H.

Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Từ Văn T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Tô Văn Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn H, Triệu Văn D, Triệu Quang T, Đinh Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận kháng cáo của bị cáo Liểu Văn X. Sửa bản án sơ thẩm đối với bị cáo X.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Tô Văn Q. Sửa bản án sơ thẩm đối với bị cáo Q về không áp dụng hình phạt bổ sung.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Văn T, Nguyễn Văn Q, sửa bản án sơ thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Từ Văn T, Nguyễn Văn Q hưởng án treo.

1.1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322, Điều 38; Bộ luật hình sự: Xử phạt Hoàng Văn H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17 Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Xử phạt Triệu Văn D 8 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Xử phạt Triệu Quang T 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ (từ ngày 09/9/2018 đến ngày 14/9/2018).

1.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Phạt tiền Đinh Công T 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

1.4. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS: Phạt tiền Liểu Văn X 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

1.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52: Xử phạt Tô Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 10/9/2018 đến ngày 04/12/2018).

1.6. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, Điều 35, Điều 65; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 BLHS; Điều 331; Điều 333 BLTTHS:

- Xử phạt Từ Văn T 09 (Chín) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng. Giao bị cáo Từ Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

- Xử phạt Nguyễn Văn Q 7 (bẩy) tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng. Giao bị cáo Nguyễn Văn Q cho Ủy ban nhân dân xã Vân Nham, huyện H, tỉnh Lạng S1 để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc các bị cáo Triệu Văn D, Triệu Quang T, Đinh Công T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, các bị cáo Từ Văn T, Nguyễn Văn Q, Liểu Văn X, Tô Văn Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng Văn H.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày T án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126A/2019/HS-PT ngày 30/09/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:126A/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về