Bản án 126/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 126/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thtỉnh Cà Mauẩm công khai vụ án thụ lý số: 240/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 359/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 16 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1991 (xin vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp Đ, xã P, huyện P, tỉnh C.

- Bị đơn: Bà Đoàn Ngọc D, sinh năm 1993 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Đ, xã P, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 20 tháng 8 năm 2020 nguyên đơn ông Phạm Văn P trình bày: Ông và bà Đoàn Ngọc D tự nguyên chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã , huyện P, tỉnh C vào ngày 10 tháng 01 năm 2014. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc, thời gian gần đây vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi xúc phạm nhau, mặc dù cha mẹ hai bên hàn gắn nhiều lần nhưng không thành, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Đoàn Ngọc D. Trong quá trình chung sống ông và bà D có một người con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 13 tháng 01 năm 2015, ông yêu cầu giao con chung cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, ông không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 20 tháng 8 năm 2020 và tại phiên tòa bị đơn bà Đoàn Thị Diễm trình bày: Bà và ông P tự nguyện chung sống với nhau năm 2014 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rât hạnh phúc, hiện tại vợ chồng mâu thuẫn và không thể chung sống với nhau được nữa và vợ chồng đã không còn chung sống với nhau khoảng từ năm 2018 đến nay nên bà đồng ý ly hôn với ông P. Trong quá trình chung sống bà với ông P có một người con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 13 tháng 01 năm 2015, con chung do bà trực tiếp nuôi dưỡng, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn P, cho ông Phạm Văn P ly hôn với bà Đoàn Ngọc D, giao con chung cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Phạm Văn P yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Đoàn Ngọc D, yêu cầu giải quyết việc nuôi con chung. Do đó, đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Phạm Văn P là nguyên đơn đã có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông Phạm Văn P.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã , huyện P, tỉnh C nên hôn nhân của ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D là hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ông P yêu cầu ly hôn với bà Đoàn Ngọc D vì cho rằng vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân. Tại phiên tòa bà D đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông P vì cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau và vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2018 đến nay. Điều này cho thấy hôn nhân giữa ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn P về việc yêu cầu ly hôn với bà Đoàn Ngọc D.

[4] Về con chung: Trong quá trình chung sống ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D có một người con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 13 tháng 01 năm 2015, con chung do bà D đang trực tiếp nuôi dưỡng, bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Tại đơn khởi kiện và bản tự khai ông P đồng ý giao con chung cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy sự thỏa thuận giữa ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của ông P và bà D, giao người con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 13 tháng 01 năm 2015 cho bà Đoàn Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Bà D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị như nêu trên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm ông Phạm Văn P phải chịu 300.000đ, ông P đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ được chuyển thu án phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39, Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Phạm Văn P với bà Đoàn Ngọc D.

- Về quyền nuôi con chung: Giao người con chung tên Phạm Khánh H (giới tính nam), sinh ngày 13 tháng 01 năm 2015 cho bà Đoàn Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: Ông Phạm Văn P phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0011951 ngày 24 tháng 8 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân; ông P đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, bà Đoàn Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Phạm Thanh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:126/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về