TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 126/2019/HS-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 08 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn Đ, tên gọi khác: Không; sinh năm 1969, tại Điện Biên; Trú tại: Đội 20, xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn M, sinh năm 1939 (đã chết) và con bà: Lò Thị O, sinh năm 1942; có vợ: Lò Thị T, sinh năm 1972 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/4/2019, tạm giam từ ngày 19/4/2019 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 7 giờ ngày 17/4/2019 Lò Văn Đ một mình từ nhà đến Đội 18, xã T, huyện Điện Biên, mục đích tìm mua ma túy về sử dụng và bán lại kiếm lời, trên đường đi Đ thuê xe ôm của một người không quen biết chở đến Đội 18, xã T, huyện Điện Biên, đến nơi Đ xuống xe đi bộ vào trong bản thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi, không rõ tên, địa chỉ đang đứng ở khu vực bụi tre ven đường. Qua chào hỏi, Đ biết người đàn ông có Heroine và Methamphetamine bán nên đã thỏa thuận và mua được của người đàn ông 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng và 01 gói Methamphetamine được gói bằng nilon màu xanh, bên trong có 192 viên Methamphetamine, với giá 3.000.000 đồng. Đ cất giấu gói heroine và Methamphetamine vào túi quần bên trái đang mặc rồi đi nhờ xe mô tô của một người không quen biết về nhà. Về đến nhà, Đ cho gói Methamphetamine vừa mua được vào trong 01 túi nilon màu trắng rồi cất giấu ở khe đầu cột nhà Đ, còn số Heroine mua được, Đ chia thành 03 gói, trong đó 02 gói heroine được gói bằng nilon màu trắng Đ cất giấu ở dưới tấm ván sàn gỗ tại khu vực bếp nhà Đ, 01 gói heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng Đ cất giấu vào túi quần bên phải Đ đang mặc. Đến 12 giờ cùng ngày, khi Đ đang ngồi tại bàn uống nước thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên vào nhà kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên mặt bàn uống nước 01 gói heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng có khối lượng 0,17 gam, cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lò Văn Đ. Qua khám xét, phát hiện thu giữ tại khe đầu cột nhà Đ 01 túi nilon màu trắng, mở bên trong có 01 gói Methamphetamine được gói bằng nilon màu xanh, bên trong có 190 viên Methamphetamine màu hồng, 02 viên Methamphetamine màu xanh, tổng khối lượng 18,01 gam; Thu giữ dưới tấm ván sàn gỗ tại khu vực bếp nhà Đ có 02 gói heroine đều được gói bằng nilon màu trắng có tổng khối lượng 0,22 gam.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....
Kết luận giám định số 440/GĐ-PC09 ngày 27/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ Biên kết luận: 02 mẫu ký hiệu M1, M2 trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine; 02 mẫu ký hiệu M3, M4 trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine; Vật chứng thu giữ của Lò Văn Đ gồm 0,39 gam chất bột màu trắng; 17,83 gam viên nén màu hồng và 0,18 gam viên nén màu xanh. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về các kết luận Giám định nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 128/CT-VKSHĐB ngày 15/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ Biên truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ Biên, tỉnh Đ Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng đến 12 (mười hai) năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 18,01 gam Methamphetamine và 0,39 gam Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn Đ chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Hành vi của bị cáo: Khoảng 07 giờ ngày 17/4/2019 Lò Văn Đ đến Đội 18, xã Thanh An, huyện Điện Biên mục đích tìm mua heroine về sử dụng và bán lại, đến nơi bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi, không rõ tên, địa chỉ đang đứng ở khu vực bụi tre ven đường, qua trao đổi Đ đã mua của người đàn ông đó 01 gói heroine và 01 gói Methamphetamine (bên trong có 190 viên methamphetamine màu hồng và 02 viên màu xanh) với số tiền 3.000.000 đồng, toàn bộ số heroine trên đã bị Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Điện Biên khám xét thu giữ có khối lượng 0,39 gam heroine và 18,01 gam Methamphetamine. Bị cáo đã mua hai chất ma túy khác nhau với mục đích để sử dung và bán lẻ kiếm lời, tổng khối lượng của hai chất ma túy là 18,40 gam. Do vậy hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn huyện Đ Biên nói riêng cũng như địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Nên bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Núa Ngam, huyện Điện Biên, bị cáo đi học hết lớp 10/10, lớn lên xây dựng gia đình với Lò Thị Thương và sinh được 02 người con, bị cáo sử dụng ma túy từ năm 1994. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ là ông Lò Văn Mấng và mẹ đẻ là bà Lò Thị Ón có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba do chủ tịch nước Trần Đức Lương ký vào ngày 17/03/1999, do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo nhưng cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu chính từ làm ruộng, bản thân bị cáo sử dụng ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.
[6]. Nguồn gốc số heroine thu giữ của bị cáo, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi, bị cáo không biết tên, địa chỉ. Do vậy cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.
[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 18,01 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi giám định 0,27 gam, không hoàn lại mẫu vật và 0,39 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,15 gam, không hoàn lại mẫu vật, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
[9]. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn Đ chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm p Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Đ phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
2. Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 11 (mười một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 17/4/2019.
3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 0,39 gam heroine, trích mẫu 0,15 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 0,24 gam heroine; Tịch thu, tiêu hủy 17,83 gam Methamphetamine, trích 0,18 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 17,74 gam Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ Biên, tỉnh Điện Biên theo Biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 26/7/2019).
4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/8/2019)./
Bản án 126/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 126/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về