Bản án 126/2019/HS-ST ngày 04/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 126/2019/HS-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 128/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Quốc N, sinh năm 1994 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 54/2/15 Bạch Đ, Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Đức N, sinh năm 1969 và bà: Trần Thị Bửu N, sinh năm 1966; có vợ: Phạm Thị Thu T, sinh năm 1997 và 02 con: lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2018; Nthân: Bản án số 332/2013/HSST ngày 25/12/2013 Tòa án Ndân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 0046902/QĐ-XPVPHC ngày 12/5/2018 Công an phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú xử phạt 1.650.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, nộp phạt ngày 14/5/2018; tạm giữ, tạm giam: 29/7/2019. Có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Hồng Y, sinh năm 1964, nơi cư trú: 54 Nguyễn Hồng Đ, Phường C, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trần Thị Bửu N, sinh năm 1966, nơi cư trú: 93 Nguyễn Hữu T, phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.

2. Anh Lý Minh T, sinh năm 1981, nơi cư trú: 842/17 tỉnh lộ 10, phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/3/2019, Phạm Quốc N điều khiển xe gắn máy hiệu Wave biển số 52L9-3648 đến cửa hàng tạp hóa tại nhà số 54 Nguyễn Hồng Đ, Phường C, quận B của bà Nguyễn Hồng Y mua thuốc lá. Ndựng xe máy dưới lề đường rồi đi vào đứng ngay ngoài cửa, đứng cạnh tủ đựng thuốc lá. Thấy cửa hàng không có ai trông coi nên N nảy sinh ý định trộm cắp. Ngay lúc đó, N dùng tay mở ngăn kéo phía trong tủ thuốc lá lấy trộm số tiền 771.000 đồng rồi bỏ vào túi quần bên trái, chạy ra ngoài chỗ dựng xe gắn máy và leo lên xe định tẩu thoát. Khi N chuẩn bị chạy xe đi thì bà Y phát hiện chạy ra cùng chồng ông Ngô Ngọc H giữ lại, báo Công an Phường 14, quận Tân Bình xử lý. Tại cơ quan điều tra, N đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản như trên.

Vt chứng vụ án:

- Số tiền 771.000 đồng, đã trả lại cho bị hại bà Nguyễn Hồng Y. Bà Y không có yêu cầu gì thêm.

- 01 xe gắn máy Wave màu xanh, biển số 52L9-3648 thu giữ của Nhân.

Qua xác minh, chủ sở hữu xe là anh Lê Minh T, nhưng anh T đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2015 nên không làm việc được. N khai mượn xe gắn máy trên của mẹ là bà Trần Thị Bửu N. Bà N khai mua lại xe máy trên từ một người đàn ông không rõ lai lịch với giá 2.500.000 đồng vào tháng 9/2018. Khi mua bán không làm giấy tờ, có giấy đăng ký xe nhưng bà đã làm mất. Bà N không biết bị cáo mượn xe đi công việc rồi dùng vào việc phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Phạm Quốc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phạm Quốc N, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát Ndân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Quốc N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền của bà Nguyễn Hồng Yến tuy chỉ có 771.000 đồng nhưng trước đó bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa vi phạm, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã bị kết án nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Hồng Y đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án: 01 xe gắn máy Wave màu xanh, biển số 52L9-3648 thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc không rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu trong một thời gian nhất định, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Phạm Quốc N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/7/2019.

[2] Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình 01 xe gắn máy Wave màu xanh, biển số 52L9-3648, số khung: VTMPCH0011R-000193, số máy: CR110FMH-100870 đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 164/PNK ngày 20/9/2019 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2019/HS-ST ngày 04/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:126/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về