TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 126/2017/HSST NGÀY 11/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý 104/2017/HSST, ngày 07 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Trương Thị D, sinh năm 1995; STQ: Thôn Q, xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Trương Văn L, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1960; Gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện tại ngoại. (có mặt tại phiên tòa)
* Người bị hại: Chị Hà Thị H, sinh năm 1995. HKTT: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Cạn.
Trú tại: thôn C, xã L, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Trương Thị D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/6/2017, sau khi D và chị H đi chơi về, D đang ngồi ở phòng trọ của chị H thì chị H đi tắm. Do tức chị H từ buổi chiều nên D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản ở phòng trọ của chị H để sử dụng. D lục tìm Giấy đăng ký xe máy điện ở trong túi xách của chị H để ở đầu giường. Sau khi lấy được đăng ký xe, D lấy chiếc điện thoại Samsung J5 màu trắng của chị H đang sạc pin ở dưới nền nhà, rồi đi ra dắt chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99MĐ4 - 032.41 ra cổng khu nhà trọ rồi nổ máy đi về phòng trọ của D ở thôn Đ, xã P để lấy đồ. Sau đó, D đi lên thành phố Bắc Ninh chơi, rồi đi qua ngã tư P, huyện Q thì chiếc xe máy điện bị hết điện. D nhờ một thanh niên tháo 2 sim trong máy của H ra khỏi điện thoại vừa trộm cắp nhưng không biết người thanh niên ấy tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Sau đó, D dùng điện thoại của mình gọi điện cho anh Trần Văn T là bạn trai của D đến đón D rồi cả hai vào nhà nghỉ P ở thôn C, xã C thuê phòng nghỉ qua đêm. Anh T có hỏi nguồn gốc chiếc xe nhưng D nói là mượn của bạn. Sau đó anh T mua cho Dung bộ sạc xe điện và ra về trước. D sạc pin vào xe điện và ra về sau rồi điều khiển chiếc xe lên thành phố Bắc Ninh chơi, buổi chiều cùng ngày 04/6/2017 D bắt xe khách ra Hà Nội chơi. Đến ngày 06/6/2017 D thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đã đến cơ quan công an huyện Yên Phong đầu thú và giao nộp toàn bộ tài sản đã trộm cắp của chị H.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS99MĐ4–032.41, số khung: EHPEHA803803, số máy: V1000W803803; 01 đăng ký xe máy điện mang tên Nghiêm Thị T, địa chỉ: N, thị trấn C, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, số đăng ký: 016261, đăng ký của xe máy điện BKS: 99MD4-032.41; 01 điện thoại di động Samsung J5 màu trắng, số Imei 1: 3550798334024, Imei 2: 355080083334022, đã qua sử dụng; 01 DVD ghi hình ảnh của D ra, vào nhà nghỉ P.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 32/KL - HĐ ngày 09/6/2017 của Hội dồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận: Giá trị chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS là 11.000.000đ và giá trị chiếc điện thoại Samsung J5 là 2.900.000đ. Tổng giá trị tài sản là: 13.900.000đ.
Tại bản Cáo trạng số 102/CTrVKS ngày 04/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố Trương Thị D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của BLHS.
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 ngày 03/6/2017 tại phòng trọ của chị Hà Thị H ở thôn C, xã L, lợi dụng sơ hở của chị H, Trương Thị D đã trộm cắp một chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99MĐ4 - 032.41 cùng đăng ký xe và một chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J5 màu trắng của chị Hà Thị H mục đích để sử dụng. Sau khi bị phát hiện ngày 06/6/2017 D đã tự nguyện đến cơ quan công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.
Chị Hà Thị H - Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo lời khai tại CQĐT có trong hồ sơ thể hiện: Do là bạn quen từ trước nên tối ngày 03/6/2017 sau khi cùng D đi chơi, lợi dụng lúc chị H tắm D đã trộm cắp chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99MĐ4 032.41 cùng giấy tờ xe và một chiếc điện thoại Samsung J5 màu trắng, nay chị đã nhận lại toàn bộ số tài sản trên, không có yêu cầu gì thêm về phần bồi thường đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã sau khi phân tích hành vi, tích chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, đã giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Trương Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 60 BLHS xử phạt bị cáo Trương Thị D từ 10 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 tháng đến 24 tháng. Giao bị cáo cho UBND xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo thường trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.Về vật chứng: Đối với 01 đĩa DVD ghi hình ảnh ra, vào nhà nghỉ P của D bcần lưu theo hồ sơ.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của các bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa thể hiện: Ngày 03/6/2017 Trương Thị D đã có hành vi lén lút trộm cắp của chị Hà Thị H một chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99 MĐ4 032.41 cùng giấy tờ xe và một chiếc điện thoại Samsung J5 màu trắng có tổng giá trị 13.900.000đ. Do vậy đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Trương Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 13.900.000 đồng nên hành vi của bị cáo phạm vào khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Xét về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn làm mất trật tự trị an ở địa phương nên hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thì thấy.
Về tình tiết tăng nặng: Không có tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo xuất thân từ nhân dân lao động, từ trước đến nay chưa có sai phạm gì, phạm tội lần này là lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự nguyện nộp lại toàn bộ số tài sản đã trộm cắp, sau khi phạm tội bị cáo đã ra cơ quan Công an đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, nên cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện giáo dục và cải tạo.
Bị cáo chưa có việc làm, kinh tế khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với Trần Văn T, khi hỏi D xề chiếc xe máy điện, D nói là mượn của bạn nên T không biết chiếc xe đó là do D trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99MĐ4 032.41 đăng ký mang tên Nghiêm Thị H. Do chị H không có hộ khẩu tại Yên Phong nên H đã nhờ chị H đứng tên hộ để đăng ký chiếc xe máy điện trên.
Về trách nhiệm dân sự: Chị H đã nhận lại tài sản và tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên cần ghi nhận sự tự nguyện của chị H.
Về vật chứng: Một chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO VS màu trắng BKS 99MĐ4 032.41 cùng giấy tờ xe và một chiếc điện thoại Samsung J5 màu trắng 01 màu trắng là tài sản của chị Hòa nên CQĐT đã trả lại chị H là phù hợp.
Đối với chiếc DVD ghi lại hình ảnh ra, vào nhà nghỉ của D cần lưu theo hồ sơ vụ án.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Trương Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản”
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự. Điều 76; Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Trương Thị D 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao cho UBND xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo thường trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự
Về vật chứng: Lưu theo hồ sơ 01 đĩa DVD.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Bản án 126/2017/HSST ngày 11/09/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 126/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về