Bản án 125/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 125/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 143/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144 /20 20 /QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Thạch Đ – sinh năm 1994, tại Đồng Nai Nơi cư trú: Ấp P.T, xã P.Tr, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; Dân tộc: Khơ me; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thạch Y – sinh năm 1968 và bà Lê Thị H – sinh năm 1969; Có vợ là Nguyễn Thị X – sinh năm 1998 và có 01 (một) con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2020. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn P – sinh năm 1990 Địa chỉ: Ấp T.T, xã P.L, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 40 phút ngày 03/9/2020, tại nhà trọ thuê của Thạch Đ thuộc ấp T.T, xã P.L, huyện T.P do bà Lê Thị X làm chủ, lực lượng Công an xã P.L, huyện Tân Phú đã phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thạch Đ vì có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Lê Văn P, và đã thu giữ tang vật gồm có: 01 (một) gói giấy bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng nghi là ma túy (heroin) thu giữ trên tay P (Ký hiệu M1), 01 (một) gói nylon bên trong có chứa chất dạng cục màu trắng thu giữ trên kệ bếp trong phòng trọ Thạch Đ (Ký hiệu M2), số tiền 150.000 đồng thu giữ trên tay Thạch Đ, 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Mobell đã qua sử dụng.

Qua điều tra làm rõ được hành vi phạm tội của Thạch Đ như sau:

Thạch Đ là đối tượng nghiện ma túy. Để có ma túy sử dụng, Đ đã đến Thành phố Hồ Chí Minh tại khu vực bến xe A.S mua 01 (một) gói ma túy (loại heroin) dạng cục với giá 1.200.000 đồng từ người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch. Sau đó, Đ về nhà tự phân nhỏ thành tép, sử dụng một phần, còn lại cất giấu để bán lại cho những người nghiện khác. Vào khoảng 13 giờ 40 phút ngày 03/9/2020, khi Lê Văn P đến phòng trọ của Đ hỏi mua ma túy với giá 150.000 đồng để sử dụng thì Đ đồng ý và lấy ma túy đưa cho P, đồng thời nhận từ Phi số tiền 150.000 đồng thì bị Công an xã P.L bắt quả tang, chuyển đến Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú xử lý theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, Thạch Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận giám định số 2128/KLGĐ-PC09 ngày 10/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0244 gam loại heroin. Mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,4270 gam loại heroin. Tổng cộng là 1,4514g ma túy, loại heroin.

Theo Cáo trạng số 143/CT-VKSTP-ĐN ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Thạch Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Thạch Đ mức án 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Đối với với số ma túy còn lại sau giám định là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy; đối với số tiền bị cáo có được từ việc mua bán ma túy mà có, đây là khoản tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội, nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy, đồng ý với tội danh, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị là tương xứng đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú:

Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định... Như vậy, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Vào 13 giờ 40 phút ngày 03/9/2020, tại Ấp T.T, xã P.L, huyện T.P, Thạch Đ thực hiện hành vi mua ma túy loại heroin (nhằm mục đích sử dụng một phần, còn lại bán lại cho những người nghiện khác) và bán trái phép cho Lê Văn P 0,0244 gam ma túy loại heroin với giá 150.000 đồng thì bị phát hiện bắt quả tang; thu giữ tại phòng trọ của Thạch Đ 01 (một) gói ma túy loại heroin khối lượng 1,4270 gam do Thạch Đ cất giữ nhằm mục đích bán lại cho người khác. Hành vi của Thạch Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo. Ngoài ra còn xem xét: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn thuộc hộ cận nghèo, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Tình tiết giảm nhẹ của bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quyết định hình phạt:

Bị cáo là người đã thành niên nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, còn trẻ nhưng do nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, vì muốn có ma túy để sử dụng thỏa mãn cho nhu cầu bản thân và có tiền để tiếp tục mua ma túy nên đã thực hiện hành vi mua bán phép chất ma túy, với lỗi cố ý.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Hiện nay, ma túy đã và đang là mối quan tâm lo lắng trong toàn xã hội nói chung và trên địa bàn nói riêng. Việc mua bán trái phép chất ma túy một phần là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và hành vi phạm pháp luật khác, gây hủy hoại sức khỏe cho người sử dụng, khánh kiệt về kinh tế, giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội.

Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo tự rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật, tu dưỡng bản thân trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội, đồng thời góp phần răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, do bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như trên nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo pháp luật của Nhà nước.

[6] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, đồng thời xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo, thể hiện các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Đối với với số ma túy còn lại sau giám định niêm phong trong 01 (Một) bao bì niêm phong số 2128/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử xem xét tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền bị cáo có được từ việc mua bán ma túy mà có là khoản tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xem xét tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 150.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

Đối với 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Mobell đã qua sử dụng là tài sản đã làm rõ được không liên quan đến vụ án và đã trả lại cho bị cáo Thạch Đ là phù hợp, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Các vấn đề khác: Đối với việc bị cáo khai có mua ma túy của người đàn ông ở Bến xe A.S tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch và chưa lấy được lời khai nên chưa có căn cứ xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 251; Điều 46, Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Khoản 2 Điều 106, Khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Thạch Đ phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Thạch Đ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/9/2020.

2. Các biện pháp tư pháp: Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong số 2128/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/12/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú).

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003182 ngày 01/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

3. Về án phí: Bị cáo Thạch Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:125/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về