Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 125/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 113/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2019/QĐXX-ST ngày 29/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đậu Thị T - sinh năm 1982.

Đa chỉ: Thôn 323, xã ĐS, huyện AS, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Xuân Th – sinh năm 1982.

Đa chỉ: Thôn Khe Choăng, xã Châu Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 10/9/2019, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Đậu Thị T trình bày:

- Về tình cảm: giữa chị và bị đơn anh Trịnh Xuân Th kết hôn với nhau vào ngày 20/8/2005 tại UBND xã Châu Khê, huyện Con Cuông, tinh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi vã, xúc phạm nhau. Nguyên nhân là do anh Th cờ bạc rượu chè, ghen tuông mù quáng, nghe lời ông bà nội về hành hạ đánh đập vợ con. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, vì vậy mà từ cuối năm 2013 vợ chồng chị không còn sống chung với nhau nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn bị đơn anh Trịnh Xuân Th.

- Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Trịnh Duy Ng, sinh ngày 19/3/2006. Hiện nay cháu Ngọc đang sống với chị tại Thôn 323, xã ĐS, huyện AS, tỉnh Nghệ An. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: chị và anh Trịnh Xuân Th thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: vợ chồng chị không vay nợ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Trịnh Xuân Th vắng mặt dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/10/2019 cháu Trịnh Duy Ng có nguyện vọng được sống với mẹ để có điều kiện học hành.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình: xử cho chị Đậu Thị T được ly hôn với anh Trịnh Xuân Th; về con: giao con chung Trịnh Duy Ng cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ngọc trưởng thành; về tài sản: chị T và anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; về án phí: chị T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp nuôi con: Theo kết quả xác minh tại Công an xã Châu Khê, huyện Con Cuông thể hiện “ anh Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Châu Khê nhưng hiện nay anh Th không có mặt ở địa phương, khi đi không báo cho chính quyền địa phương biết nên không biết địa chỉ thay đổi của anh Th”. Như vậy căn cứ vào kết quả xác minh cho thấy: Hiện anh Th đã thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho nguyên đơn cũng như chính quyền địa phương về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật dân sự, trường hợp này được coi là cố tình dấu địa chỉ. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì địa chỉ cuối cùng của anh Th theo hộ khẩu thường trú là tại thôn Khe Choăng, xã Châu Khê, huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Trịnh Xuân Th đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Th theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên sau khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã Châu Khê, huyện Con Cuông là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: xét chị Đậu Thị T và anh Trịnh Xuân Th đăng ký kết hôn ngày 20/8/2005 tại UBND xã Châu Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Th cờ bạc rượu chè, ghen tuông mù quáng, nghe lời ông bà nội về hành hạ đánh đập vợ con. Từ cuối năm 2013 cho đến nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chị T và anh Th đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Tại phiên tòa anh Th vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị T và anh Th thường xuyên xảy ra mâu thuân do anh Th thường xuyên cờ bạc, rượu chè, ghen tuông vô cớ, hay kiếm chuyện để gây sự đánh đập vợ con vì vậy mà hai vợ chồng đã không còn sống chung với nhau nữa.

Xét thấy, giữa chị T và anh Th mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Đậu Thị T được ly hôn với anh Trịnh Xuân Th.

Về con chung: Chị T và anh Th có một con chung là Trịnh Duy Ng, sinh ngày 19/3/2006. Hiện cháu đang sống với chị, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy khi cha, mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Như vậy nguyện vọng của chị T là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của người mẹ dành cho con và cũng phù hợp với nguyện vọng của con. Mặt khác qua các minh hiện nay anh Th không có mặt ở địa phương, việc giao con cho anh Th nuôi dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt cho con. Hồi đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung là cháu Trịnh Duy Ng cho chị T trược tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ngọc trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Trịnh Xuân Th.

Về tài sản chung: do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: chị Đậu Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận cho chị Đậu Thị T được ly hôn anh Trịnh Xuân Th.

Về con chung: Giao con chung Trịnh Duy Ng, sinh ngày 19/3/2006 cho chị Đậu Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến cháu Ngọc tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Trịnh Xuân Th.

Anh Th có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh Th lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Chị T cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Đậu Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0001470 ngày 16/9/2019.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:125/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về