Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 125/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 56/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2019 về việc “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Quốc , sinh năm 1980.

Đa chỉ: Ấp 1A, xã L, huyện C, tỉnh L.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị D, sinh năm 1982.

Đa chỉ: Ấp H 2, xã H, huyện Đ, tỉnh L.

(Anh T có mặt, chị D vắng mặt – Đã triệu tập hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 28 tháng 12 năm 2018, những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, anh Trần Quốc T trình bày: Anh và chị Lê Thị D có tìm hiểu nhau thời gian 02 năm, sau đó chung sống với nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh L. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, chị D tự bỏ nhà đi từ cuối năm 2016 cho đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên anh xin ly hôn với chị Lê Thị D.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh và chị D có 03 con chung tên Trần Thị Kim Ng, sinh năm 2001 đã trưởng thành, Trần Thị Kim X, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2009 và Trần Quốc D sinh ngày 28 tháng 11 năm 2012, hiện nay anh đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh xin được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu chị D cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng chị Lê Thị D vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Trần Quốc T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thị D; chị Lê Thị D có hộ khẩu thường trú tại ấp H 2, xã H, huyện Đ, tỉnh L được Công an xã Hiệp Hòa xác nhận và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn chị D đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Quốc T và chị Lê Thị D có tìm hiểu nhau thời gian 02 năm, sau đó chung sống với nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H nên hôn nhân giữa anh T và chị D là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, anh T cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, chị D tự bỏ nhà ra đi, nên anh và chị D đã ly thân từ cuối năm 2016 đến nay. Mâu thuẫn giữa anh và chị cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với chị Lê Thị D, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định nhưng vẫn không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của anh T. Tại phiên tòa hôm nay, chị Diệu vẫn vắng mặt, chứng tỏ chị D không có thiện chí để hàn gắn trong khi thời gian xa nhau đã lâu.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của anh, chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của anh Tuấn đối với chị D là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Anh T trình bày, anh và chị D có 03 con chung tên Trần Thị Kim Ng, sinh năm 2001, Trần Thị Kim X, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2009 và Trần Quốc D sinh ngày 28 tháng 11 năm 2012. Khi ly hôn anh xin được tiếp tục nuôi con chung tên Trần Thị Kim X và Trần Quốc D. Đối với Trần Thị Kim Ng đã trưởng thành anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thấy rằng cháu X và cháu D là con chung của anh T và chị D, từ khi anh T và chị D xa nhau anh T là người trực tiếp nuôi con chu đáo, đồng thời cháu X và cháu D có nguyện vọng muốn sống với anh T, do đó để đảm bảo sự phát triển bình thường của các cháu, cần tiếp tục giao cháu X và cháu D cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Đối với chị D không có văn bản phản hồi ý kiến về vấn đề con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ti phiên Tòa hôm nay anh Trần Quốc T không yêu cầu chị Lê Thị D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Anh T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; chị D không có văn bản phản hồi ý kiến về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Anh T trình bày không có, chị D không có văn bản phản hồi ý kiến về nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Anh Trần Quốc T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Trần Quốc T đối với chị Lê Thị D về việc “Ly hôn”.

Anh Trần Quốc T được ly hôn với chị Lê Thị D.

2. Về con chung: Anh Trần Quốc T được tiếp tục nuôi 02 con chung tên Trần Thị Kim X, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2009 và Trần Quốc D sinh ngày 28 tháng 11 năm 2012 (Anh T đang nuôi con). Chị D không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh T không yêu cầu. Đối với con chung tên Trần Thị Kim Ng đã trưởng thành.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh Trần Quốc T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003991 ngày 11/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Như vậy anh T không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về ly hôn và nuôi con

Số hiệu:125/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về